Sau khi khởi nghiệp bằng nghề dạy học, Herriot chuyển qua hoạt động chính
trị. Là một người cánh tả có quan điểm ôn hòa, với chủ trương chống giáo hội và chống quân phiệt,
Herriot đã trở thành là người lãnh đạo của Đảng
Xã hội cấp tiến, một đảng có nhiều ảnh huởng ở Pháp từ năm 1899 đến năm
1940.
Năm 1904 Herriot được bầu làm thị trưởng thành phố
Trong nhiệm kỳ
thủ tướng đầu tiên (từ 14-6-1924 đến 17-4-1925), Herriot phê chuẩn việc rút
quân ở Ruhr – sự việc này liên quan đến người tiền nhiệm của ông là Raymond
Poincaré. Sự tiếp tục mất giá của đồng
franc sau đó khiến Herriot phải từ chức vào cuối năm 1925.
Nhiệm kỳ thủ
tướng thứ hai của Herriot (từ 19-7-1926 đến 23-7-1926) chỉ kéo dài 3 ngày.
Trong các năm
1926-1928, khi Raymond Poincaré làm thủ tướng, thì Herriot giữ chức Bộ trưởng
Bộ giáo dục.
Nhiệm kỳ thủ
tướng thứ ba của Herriot bắt đầu vào 3-6-1932 và kết thúc vào 18-12-1932. Trong
suốt nhiệm kỳ này, Herriot tìm kiếm một chính sách hòa giải giữa Pháp với các
nước Anh, Mỹ, Liên bang Xô viết và Đức. Tại Hội nghị về Giải trừ quân bị năm 1932, Herriot phê chuẩn về nguyên
tắc yêu cầu đối với nền an ninh của Pháp nhưng cũng đưa ra một kế hoạch điều
chỉnh để giữ cho hội nghị khỏi bị đổ vỡ. Herriot là một trong số ít những chính
khách người Pháp chủ trương việc Pháp phải trả nợ chiến tranh cho Mỹ. Vì vấn đề
này nội các của ông chịu thất bại.
Là một đối thủ
của chính phủ Vichy trong Thế chiến II, Herriot bị bắt vào năm 1942 và bị đưa
đến Đức năm 1944. Được trả tự
do vào năm 1945, Herriot giành lại quyền lãnh đạo của Đảng Cấp tiến. Năm 1956,
Herriot từ chức chủ tịch đảng để chống
lại sự phân hóa của đảng.
Là người có uy
tín cao, Herriot đã giữ chức chủ tịch Hạ viện từ 1947-1954. Herriot cũng là một người ủng hộ nhiệt
tình của Liên minh châu Âu và đề xuất dự án về một Hợp chủng quốc/ Liên bang ở châu Âu (1930).
Herriot là tác
giả của khá nhiều tác phầm văn chương và khảo cứu. Nổi tiếng hơn cả trong số
các tác phầm của Herriot là tiểu thuyết Madame
Récamier (1904) và một cuốn khảo cứu về tiểu sử của Beethoven (La vie de
Beethoven, 1932). Ông được
bầu làm viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp vào năm 1946.
Ông mất ngày 26
tháng 3 năm 1957 tại Lyon - Pháp, để lại câu nói nổi tiếng: “Văn hoá là cái còn lại khi ta quên tất cả, là cái còn thiếu khi
ta đã học tất cả” (La culture, c’est ce qui reste quand on a
tout oublié, c’est ce qui manque quand on a tout appris).
Biên soạn: Đinh Thị Dung -
Trần Ngọc Thêm.