ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
TANG MA CỦA NGƯỜI KHMER AN GIANG
MỤC LỤC
DẪN LUẬN |
1. Lý do chọn đề tài. Mục đích nghiên cứu |
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu |
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu |
4. Cấu trúc của luận văn và đóng góp của luận văn |
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG |
1.1.Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài |
1.1.1. Lý thuyết về tang ma |
1.1.2. Lý thuyết về nghi lễ và nghi lễ chuyển đổi |
1.2. Khái quát về người Khmer An Giang |
1.2.1. Dân số, dân cư, địa bàn cư trú, tổ chức xã hội truyền thống. |
1.2.2. Những yếu tổ của chủ thể văn hóa có liên quan đến tang ma |
CHƯƠNG 2: PHONG TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI KHMER AN GIANG |
2.1. Phong tục tang ma đối với những cái chết bình thường |
2.1.1. Lúc lâm chung |
2.1.2. Sau khi tắt thở |
2.1.2.1. Khâm liệm |
2.1.2.2. Quàn, viếng |
2.1.2.3. Động quan, di quan, thiêu hoặc an táng |
2.1.3. Sau khi chôn hoặc thiêu |
2.1.3.1 Sau khi thiêu |
2.1.3.2. Sau khi chôn |
2.1.4. Thờ cúng người chết |
2.1.4.1. Lễ dâng phước (banh đa) |
2.1.4.2. Lễ giỗ 100 ngày |
2.1.4.3. Lễ cúng ông bà |
2.1.4.4. Lễ cầu siêu |
2.2. Phong tục tang ma đối với những cái chết không bình thường |
2.3. Đám tang sư sãi |
2.4. Những biến đổi trong tang ma người Khmer An Giang hiện nay |
2.4.1. Nguyên nhân dẫn đến biến đổi |
2.4.2. Thay đổi trong tang ma hiện tại |
2.4.2.1. Thay đổi trong quy trình tang ma |
2.4.2.2. Tập quán thờ cúng tổ tiên và cách thờ tự |
2.4.2.3. Việc cúng cho người chết |
2.4.2.4. Thay đổi trong cách thức táng |
CHƯƠNG 3: VĂN HÓA TANG MA CỦA NGƯỜI KHMER AN GIANG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHỦ THỂ VĂN HÓA |
3.1. Tang ma thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo cùng với tư duy bản địa của người Khmer |
3.1.1. Thế giới quan của người Khmer An Giang thể hiện qua tang ma |
3.1.2. Nhân sinh quan của người Khmer An Giang thể hiện qua tang ma |
3.2. Tang ma của người Khmer An Giang thể hiện văn hóa ứng xử của cư dân nông nghiệp lúc nước |
3.2.1. Ứng xử giữa người sống |
3.2.1.1. Tinh thần đoàn kết tương trợ |
3.2.1.2. Tính tập thể hòa đồng |
3.2.1.3. Nếp sống dân chủ -bình đẳng |
3.2.2. Ứng xử giữa người sống và người chết |
3.2.3. Ứng xử giữa người với thế giới thần linh |
3.3. Đặc trưng của tang ma An Giang |
3.3.1. Hình thức chôn người chết phổ biến |
3.3.2. Lễ giã cốt là một trong những điểm đặc biệt trong tang lễ của người Khmer An Giang |
3.3.3. Tính cộng đồng thể hiện cao độ so với các dân tộc khác trong khu vực |
3.3.4. Tính tự trị tạo nên sức mạnh bản địa hóa |
KẾT LUẬN |
TÀI LIỆU THAM KHẢO |
PHỤ LỤC |
TÓM TẮT LUẬN VĂN:
TANG MA CỦA NGƯỜI KHMER AN GIANG
Tang ma cùng các lễ nghi của nó là một hiện tượng văn hóa tộc người, nghiên cứu tang ma của người Khmer An Giang là một hướng tiếp cận nghiên cứu nhằm làm rõ những nét độc đáo, những giá trị văn hóa-xã hội truyền thống của người Khmer và những biến đổi trong tang ma dưới tác động của quá trình giao lưu văn hóa. Nghiên cứu tang ma của người Khmer An Giang vừa góp phần bảo lưu văn hóa tộc người truyền thống vừa góp phần làm cơ sở khoa học để hoạch định các chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc ở An Giang.
Chính vì thế, nghiên cứu này được thực hiện nhằm giới thiệu một cách đầy đủ và hệ thống về tang ma của người Khmer An Giang, trong đó tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa những quan niệm, quy tắc, quy trình và các nghi lễ trong tang ma người Khmer An Giang;
- Khảo sát những biến đổi trong tang ma của người Khmer An Giang dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội, giao lưu văn hóa;
- Làm rõ văn hóa tâm linh của người Khmer An Giang thể hiện qua các lễ tục tang ma, bao gồm thế giới quan, thể hiện dưới văn hóa ứng xử giữa những người sống, giữa người sống và thế giới thần linh cũng như những ảnh hưởng của Phật giáo trong tang ma;
Từ khóa: tang ma, văn hóa tâm linh
1.Đặt vấn đề
Nhìn dưới góc độ văn hoá, tang ma với những lễ nghi của nó là một hiện tượng văn hoá xã hội phản ánh đặc trưng văn hoá tộc người. Xét về mặt khoa học, nghiên cứu tang ma là hướng tiếp cận để tìm hiểu những giá trị văn hoá truyền thống tộc người, góp phần vào quá trình giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, ở An Giang chưa có một công trình nghiên cứu nào mang tính chuyên khảo riêng về tang ma của người Khmer An Giang.
2. Phương pháp nghiên cứu: Lĩnh vực nghiên cứu của đề tài đòi hỏi phải tiếp cận với đối tượng nghiên cứu, do đó điền dã dân tộc học là cách tiếp cận chủ yếu của đề tài thông qua phương pháp quan sát tham dự. Sau khi thu thập các dữ kiện sơ bộ, chúng tôi tổ chức các buổi thảo luận nhóm nhằm làm rõ ý nghĩa, nguồn gốc của mỗi lễ tục, vai trò của các nhóm hoặc cá nhân khi tham gia vào các sự kiện trên. Một phương pháp khác là phỏng vấn bán cấu trúc được sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm tìm hiểu sâu và chi tiết quá trình từ khi có người qua đời đến sau khi chôn cất và các cách thờ cúng sau đó. Các quan điểm về hồn, cái chết, thế giới tâm linh của người Khmer ở từng vùng cũng được chú trọng trong quá trình phỏng vấn. Mục đích của việc phỏng vấn bán cấu trúc này là nhằm cung cấp dữ liệu định tính cho việc đưa ra một cái nhìn tổng quát về tang ma cùng các lễ thức có liên quan.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Phong tục tang ma của người Khmer An Giang
Đám tang của người Khmer được gọi là Bonssap, mà người Khmer An Giang hay nói trại ra thành “Bon lớtsop”. Chết, theo quan niệm của người Khmer, không phải là sự chấm dứt, mà linh hồn của người đó vẫn tiếp tục tồn tại trong một cuộc sống mới ở thế giới bên kia. Vì thế, chết là dứt nợ trần, không phải chịu những khổ lụy, không có gì phải buồn cả, nên đám tang của người Khmer không mang màu sắc bi lụy. Và ngay cả lúc sinh thời, mỗi người dân cũng không mong muốn gì hơn là khi chết được gửi xương lên chùa, để được gần gũi Phật.
Hai hình thức tang ma phổ biến ở nguời Khmer An Giang là hỏa táng và địa táng rồi lấy xương cốt lên thiêu, gọi là giã cốt, trong đó phổ biến nhất là hình thức thứ hai.
Đặc trưng tang lễ của người Khmer dù hỏa táng hay địa táng đều gắn liền với ngôi chùa. Họ quan niệm rằng “sống gửi của, chết gửi xương”. Chính vì thế mà lúc sinh thời người dân không tiếc của tiếc công trong việc xây dựng và thực hiện các lễ nghi. Họ mong muốn rằng, khi về với đất họ sẽ được gửi xương lên chùa, để được nghe lời kinh tiếng kệ, để được về với Phật.
Đóng vai trò quan trọng và thực hiện các nghi lễ trong đám tang là các vị sư sãi và acha. Trong tang lễ, các vị sư là người đại diện cho Phật pháp, là những người được tin là có năng lực, khả năng dẫn dắt linh hồn đi theo con đường thiện, có trách nhiệm cầu siêu để vong linh người chết sớm được siêu thoát. Thông qua các sư sãi, các phẩm vật mà gia đình dâng cúng cho người chết sẽ nương theo khói nhang và lời kinh mà đến với người đã chết. Chính vì vậy mà trong tang ma, sự hiện diện của các vị sư sãi là hết sức quan trọng.
Tham dự các đám tang Khmer, từ giờ phút lâm chung đến khi hoàn tất việc chôn cất hay hỏa thiêu, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều nghi lễ được người Khmer thực hiện theo trình tự nhất định. Tuy vậy, người Khmer An Giang không phân chia tang lễ thành các giai đoạn và cũng không có tên gọi riêng cho từng giai đoạn. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, chúng tôi tạm phân chia các nghi lễ theo các bước sau: lúc lâm chung, sau khi tắt thở (gồm có khâm liệm; quàn, viếng; động quan, di quan, thiêu hoặc an táng), sau khi chôn hoặc thiêu, thờ cúng người chết. Trong giới hạn bài viết này chúng tôi không đi sâu vào các lễ thức mà chỉ trình bày các vấn đề liên quan đến văn hóa tang ma của người Khmer An Giang.
Các trường hợp chết do tai nạn, chết trong khi mang thai, chết do tự tử, chết khi còn trẻ được cho là chết không bình thường, và tùy từng trường hợp mà người Khmer có cách ứng xử riêng. Nhưng nhìn chung đám tang được tổ chức hết sức đơn giản. Người Khmer bình dân, với niềm tin về ma quỷ, cho rằng những người chết oan ức như thế này, linh hồn không siêu thoát, không chịu đi đầu thai, thường trở thành ma, quỷ để về chọc phá hoặc trả thù người sống. Chính vì thế mà họ rất sợ những người chết không bình thường và khi có dịp đi ngang qua mộ những người này, họ hay thắp nhang để cầu mong các ma quỷ đó đừng hiện về nhát họ và con cháu họ.
Đám tang của các vị sư sãi: Là những người được kính trọng trong cộng đồng nên đám tang của sư sãi được tổ chức quy mô và trọng thể hơn đám tang của người thường dân dù giống nhau về mặt trình tự cũng như các lễ thức. Nếu người qua đời là sư trụ trì hoặc vị sư có chức sắc, có tiếng tăm, đám tang của họ được tổ chức trọng thể, linh đình và quy tụ đông đảo sư sãi không chỉ trong khu vực mà cả những tỉnh lân cận.
3.2. Văn hóa tang ma của người Khmer An Giang nhìn từ góc độ chủ thể văn hóa
3.2.1. Tang ma thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan Phật giáo cùng với tư duy bản địa của người Khmer An Giang
Câu hỏi khi chết sẽ đi về đâu cũng là một vấn đề lớn từ xưa đến nay đối với hầu hết các dân tộc. Người Khmer cũng luôn trăn trở về việc sau khi chết có cái gì, và điều này cho thấy họ vẫn muốn có sự “viện trợ” của những thánh thần, tổ tiên, giúp đỡ cho bản thân hưởng được một cuộc sống ở trần gian được an toàn và hạnh phúc hơn, vượt qua những điều mà người trần không vượt qua nổi [Đặng Nghiêm Vạn, 2001: 85][1].
Người Khmer tin rằng có một thế giới bên kia, là thế giới dành cho người chết. Thế giới này nằm ở hướng Tây, vì theo quan niệm của người Khmer, hướng Tây là hướng của sự chết, của cõi âm. Con người khi qua đời sẽ về cõi này, chờ xét xử, tội ác của bản thân ở trần gian sẽ bị phán xử khi con người bước qua thế giới bên kia, nếu làm điều tốt thì được lên cõi Trời, lên Niết Bàn, nếu làm chuyện ác khi còn sống sẽ xuống cõi địa ngục, ngạ quỷ.
Cũng như dân tộc Việt, việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến tín ngưỡng đa thần [Trần Ngọc Thêm, 2001:242]. Thế giới bên kia, không chỉ có người chết, mà trong đó còn có thần thánh, ma quỷ. Người Khmer phân biệt rõ ma (Thmot) và quỷ (Bay sach). Ma lại được chia thành hai loại nữa là ma rừng (thmot pray) và ma trong dòng họ (thmot chua). Ma rừng là ma sinh sống trên cây to, thường hay dọa người sống. Ma trong dòng họ là người thân đã quá vãng mà chưa kịp đi đầu thai, ma thuộc loại này hiền và có khi theo giúp đỡ những người trong gia đình, dòng họ. Quỷ thường ác hơn ma, gồm hai loại, một là do con người tạo ra bằng cách phù phép để làm những việc ác hại người [Lê Hương, 1969:115], hai là gồm những người chết bất đắc kỳ tử, chết trẻ, chết vì uất ức, tức giận không đầu thai sang kiếp khác mà linh hồn vất vưởng để trêu ghẹo, trả thù. Ma quỷ và thần thánh ở đây có diện mạo rõ ràng và cùng tham gia các họat động của con người” [Trường Lưu, 1993: 30]. Mỗi loại ma quỷ có hình dạng khác nhau khi xuất hiện, vì thế người ta đặt tên cho chúng như là những vật hữu hình như quỷ Misa, quỷ đói Bây sách, quỷ Cô hồn (Thmot Lonn), quỷ bào thai (Konn Krot)…
Là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, nơi cư trú trước kia chỉ là vùng hoang vu, thiên nhiên khắc nghiệt cộng với sự truyền bá rộng rãi của Phật giáo, người Khmer đã sớm hình thành cho mình những khái niệm về hồn, linh hồn mang triết lý Phật giáo sâu sắc.
Niềm tin linh hồn là có thật rất phổ biến trong cộng đồng người Khmer An Giang. Hồn và linh hồn (pralưng) là một khái niệm phổ biến rộng rãi trong nhân dân, đặc biệt là ở những người bình dân. Con người được cấu tạo bởi hai yếu tố, phần xác (sop) và phần hồn. Xác và hồn luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời.
Người Khmer giải thích hiện tượng “xỉu” hoặc “ngất” là do linh hồn tạm thời rời khỏi thân xác, để đi tìm nơi trú ngụ mới. Nếu linh hồn tìm thấy chỗ mới thì người đó sẽ chết, nếu không tìm được thì linh hồn trở về lại với thân xác cũ, người đó sẽ tỉnh lại. Chính vì thế mà khi có người xỉu, người ta thường cúng cho ma tại chỗ các thứ như gà, vịt, đầu heo... để mong cho người đó tỉnh lại.
Người Khmer quan niệm rằng, khi con người hấp hối, linh hồn bay đi xa nên người ta không còn nhớ gì cả. Ngay sau khi con người trút hơi thở cuối cùng, linh hồn rời khỏi thân xác và bay vòng vòng trong 7 ngày, sau đó trở về nhà mình. Chỉ sau khi thiêu 100 ngày thì linh hồn mới có thể đi đầu thai, tiếp tục một cuộc sống khác. Còn nếu chôn, thì sau khi làm xong đám giã cốt thì linh hồn mới có thể đi đầu thai được.
Linh hồn, sau khi đã rời thân xác, trở thành một thực thể độc lập, cũng có sự sống, và cũng cần phải tìm thức ăn để sống. Chính vì thế, gia đình phải làm phước để hồi hướng thức ăn và phước đức cho linh hồn. Người dân tin rằng những của cải đã cống hiến vào chùa và dâng cho sư sãi sẽ nương theo khói nhang và tiếng kinh mà đến với người thân đã quá vãng của mình. Vì thế, việc những người này có được sung sướng hay không không chỉ phụ thuộc vào phước họ đã có lúc sinh thời mà còn phụ thuộc vào việc con cháu hay người thân của họ làm phước nhiều hay ít.
Là cư dân nông nghiệp nên phong tục tang ma của người Khmer cũng thấm nhuần tinh thần âm dương ngũ hành của phương Nam. Cờ tang và chỉ buộc cho người chết có màu trắng. Đồng thời trong triết lý âm dương, âm ứng với số chẵn, nên mọi thứ làm cho người chết đều thuộc số chẵn. Họ cho rằng số lẻ là số của ma, là số lửa nên dễ xảy ra xung đột. Chính vì thế mà trong tang lễ và cả trong hôn lễ, người Khmer kỵ ngày lẻ. Các lễ vật đặt trong thúng chong thbau ung cũng được sắp xếp theo số chẵn. Hướng tây được cho là hướng của người chết. Khi người chết vẫn được để trong nhà, đầu họ vẫn được đặt quay về hướng Đông, bởi họ tin rằng lúc đó người thân mình vẫn còn đâu đó, chưa thực sự mất đi. Chỉ khi mang đi chôn hoặc mang đi thiêu, thì đầu người chết mới được đặt theo hướng Tây. Điều này khẳng định một lần nữa rằng, người đó đã thực sự bắt đầu cuộc hành trình về thế giới bên kia, không còn cơ hội quay trở lại hướng Đông, hướng của người sống được nữa. Việc rước ba vòng ngược chiều kim đồng hồ quanh chính điện trong lễ giã cốt hoặc quanh lò thiêu cũng là chuyển động từ đông sang tây, từ dương sang âm.
Ảnh hưởng bởi tôn giáo, người Khmer tin rằng Tứ đại gồm có đất, nước, gió và lửa đã tạo thành mọi thứ trên thế gian này, kể cả con người. Trong tứ đại, yếu tố nước là yếu tố rất quan trọng đối với đời sống của người dân Khmer và để lại dấu ấn đậm nét trong văn hóa Khmer, đặc biệt là trong tang ma, thể hiện qua các lễ thức vẩy nước cầu siêu, rửa cốt bằng nước dừa...
3.2.1 Nhân sinh quan của người Khmer An Giang thể hiện qua tang ma
Nhân sinh quan là quan niệm của con người về cuộc đời, nó được xếp thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối sống. Ở người Khmer, nhân sinh quan của họ mang màu sắc tôn giáo rõ nét, đặc biệt là ảnh hưởng của Phật giáo Theravada.
Niềm tin Phật giáo khiến người Khmer xem cuộc sống ở trần này như là cõi tạm. Thân xác này cũng là tạm bợ, bởi nó được hình thành từ tứ đại, chắc chắn là sẽ đến lúc phải tiêu hủy. Do đó, phần đông người Khmer có thái độ bình tĩnh đối với cái chết, sẵn sàng chờ đón cái chết, bởi ngay từ bé họ đã thấm nhuần triết lý Phật giáo, xem chết là điều không thể tránh khỏi. Chính vì thế, người Khmer ít than khóc hay tỏ ra quá đau buồn, họ quan niệm rằng than khóc, thương tiếc đối với người quá vãng là vô ích, bởi vì người đã chết thì không thể nghe và biết sự thương tiếc ấy. Mà lúc đó, chỉ nên đọc kinh để người chết được về với Phật. Việc đọc kinh cho người chết ngoài ý nghĩa là để cho linh hồn sớm được siêu thoát còn giúp cho người đang sống suy nghĩ để làm điều thiện nhiều hơn.
Dù vậy, đối với cái chết của người thân, người Khmer cũng bị giằng kéo giữa hai thái cực: vui sướng và đau buồn. Vui sướng là bởi vì họ tin rằng người thân của họ sẽ được về Niết Bàn, được đầu thai kiếp sau an nhàn nên họ chuẩn bị chu đáo cho việc ra đi của người thân thông qua các nghi lễ cầu siêu, lễ giã cốt… Có thể nói, các lễ thức mà người Khmer thực hiện cho thân nhân đã quá vãng của họ là nhằm để rửa sạch tội lỗi và tích thêm phước đức cho người thân đồng thời cầu mong tích đức cho bản thân mình và con cháu sau này.
3.3. Tang ma của người Khmer An Giang thể hiện văn hóa ứng xử của cư dân nông nghiệp lúa nước
Văn hóa ứng xử này không chỉ thể hiện ở quan hệ giữa người sống với người đã chết mà còn là giữa người sống với nhau và giữa con người với thế giới thần linh vốn đầy bí ẩn. Người Khmer là cư dân nông nghiệp lúa nước nên văn hóa ứng xử của cư dân nông nghiệp lúa nước được biểu hiện qua tang ma rất đậm nét trên các bình diện sau đây:
3.3.1. Ứng xử giữa những người sống
Văn hóa ứng xử giữa những người sống trong tang ma của người Khmer An Giang là sự phản ánh tính cộng đồng phum sóc đã có từ lâu đời. Người Khmer An Giang, trừ các vùng như Châu Thành, Thoại Sơn, thường sống quây quần trong những phum tương đối khép kín, ít khi có việc cư trú xen lẫn giữa các tộc người Việt - Hoa - Khmer - Chăm. Phum của người Khmer An Giang chủ yếu thuộc hình thái phum lớn với quy mô hàng trăm nhà, gồm nhiều dòng họ quy tụ [44, trang 190]. Mỗi phum tập hợp nhiều “đom pteah” từ 10 đến 20 chòm nhà mang sắc thái tương tự như một phum nhỏ, được biểu hiện như một loại hình cư trú huyết thống chủ yếu theo dòng nữ. Mỗi đom pteah có khoảng 5-7 nhà, gồm nhà cha mẹ và các con gái, hiện nay có cả con trai.
Thói quen cư trú trong phum gồm những người họ hàng thân thuộc, có liên quan về huyết thống của người Khmer đã hình thành nên sợi dây liên kết ràng buộc giữa những người cùng sống chung trong cộng đồng đó. Việc tổ chức cư trú như thế đã làm hình thành nên tính cộng đồng trong xã hội người Khmer An Giang.
Nếu như ở tộc người Việt, biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa [Trần Ngọc Thêm, 2001:92] thì ở người Khmer, biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là ngôi chùa. Đó là nơi tổ chức các lễ hội của cộng đồng, là nơi con người gửi tro cốt sau khi chết, là nơi gửi gắm nhiều tình cảm và gắn bó từ khi con người sinh ra cho đến lúc qua đời. Ngoài ràng buộc bởi quan hệ huyết thống thì ngôi chùa, hiểu theo một cách nào đó, cũng chính là sợi dây ràng buộc giữa từng cá nhân với nhau và cùng hướng tới một mục đích chung. Thông qua ngôi chùa, người Khmer cảm thấy mình “tồn tại”, cảm thấy mình thực sự là một thành viên của phum, của cộng đồng.
Tính cộng đồng còn thể hiện ở việc nhà của người Khmer An Giang hiếm khi có cổng rào bao quanh cũng như các phum hay đom pteah không có ranh giới xác định mà đó chỉ là sự quy ước được lưu truyền từ lâu đời mà thôi.
Tính cộng đồng đã tạo nên những đức tính như đoàn kết tương trợ, tính tập thể cao, nếp sống dân chủ-bình đẳng [Trần Ngọc Thêm, 2001:195] và những đặc tính này thể hiện rõ nét trong tang lễ của người Khmer An Giang. Bởi con người Khmer là con người của cộng đồng, nên những sự kiện liên quan đến cá nhân (như hôn lễ, tang lễ) đồng thời cũng là sự kiện của cả cộng đồng.
3.3.2. Ứng xử giữa người sống và người chết
Như đã nói, tang ma và các hình thức thờ cúng là thể hiện của sự xót thương, lòng hiếu thuận của những người sống đối với người quá cố [Bộ Văn hóa thông tin, 2004:677]. Trong ứng xử giữa người sống và người chết diễn ra hai tâm lý giằng kéo: nuối tiếc người thân và đưa tiễn người thân qua bên kia thế giới [Trần Ngọc Thêm, 2001:260]. Đây cũng là giai đoạn mà người sống học cách thích ứng với hoàn cảnh mới, một hoàn cảnh mà không còn sự hiện diện cụ thể của người thân trong cuộc sống hằng ngày của họ nữa. Chính vì thế mà họ cảm thấy xót thương, tiếc nuối được thể hiện qua việc khóc than người đã mất.
Văn hóa ứng xử giữa người sống và người chết thể hiện qua việc chuẩn bị cho người chết chu đáo để về thế giới bên kia bằng các cách như chuẩn bị đồ dùng, tắm rửa cho thi hài, thực hiện các nghi lễ, dâng cúng các phẩm vật…
Niềm tin về thế giới bên kia cũng là một vùng sông nước như thế giới thực tại được thể hiện qua nghi lễ tiễn ông bà trong lễ cúng ông bà bằng việc chuẩn bị chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối gọi là Sam pou. Trên chiếc thuyền người ta treo cờ phướn và khắc hình tam giác ở đầu và đuôi để thuyền đưa ông bà họ không gặp phải tai nạn dọc đường [Trần Văn Bổn, 2002:116].
Là tín đồ Phật giáo, người Khmer vẫn biết khi chết con người không thể đem gì theo được, chỉ có thể đem theo tội và phước mà thôi. Thế nhưng, người bình dân vẫn tin rằng thế giới bên kia nơi mà người chết sẽ đến cũng là một thế giới giống như thế giới của người sống. “Dương sao, âm vậy”, quan niệm này dẫn đến việc người Khmer chuẩn bị cho người chết những vật dụng mà họ sử dụng hằng ngày như quần áo, giày dép, những kỷ vật thân thuộc của người chết để người chết mang sang thế giới bên kia mà sử dụng. Đồng thời, người sống tắm rửa sạch sẽ và rảy nước thơm cho thi thể để linh hồn người chết được sạch sẽ mà đi gặp tổ tiên, gặp Đức Phật cũng thể hiện sự chuẩn bị chu đáo của người sống đối với người đã chết, thể hiện mối quan tâm của người sống đối với cuộc sống sau khi chết của người đã khuất. Đồng thời,việc dâng cúng phẩm vật cho người đã qua đời cũng thể văn hóa ứng xử của người Khmer đối với người đã chết. Họ cũng tin rằng linh hồn, dù không còn trú ngụ trong thể xác, vẫn rất cần ăn uống, chính vì thế mà người sống phải dâng các thực phẩm cho người chết, để người chết được đầy đủ, no ấm ở thế giới bên kia.
Sự quan tâm của người sống đối với người đã chết còn được thể hiện qua việc thực hiện các lễ cầu siêu. Người ta tin rằng, thông qua việc nhờ sư sãi cầu siêu, linh hồn của người thân của họ có thể giảm bớt tội lỗi mà được lên Niết bàn. Chính vì thế, họ chú tâm vào thực hiện việc cầu siêu cho người chết. Việc cầu siêu cho người chết này cũng giúp người sống tích đức, hồi hướng công đức cho ông bà đã quá vãng của người đến tham dự đám phước. Sự quan tâm này còn được thể hiện qua việc những người trong cộng đồng nhiệt tình và tận tâm tham dự đám tang cũng như các lễ cầu siêu sau đó. Dù cho lúc sinh thời, giữa họ và láng giềng có xảy ra mâu thuẫn gì, thậm chí ghét nhau đến nỗi không thèm nhìn mặt nhau, thì khi người đó chết đi cũng có nghĩa là mọi lỗi lầm, mọi giận hờn, tranh chấp đều được cởi bỏ. Những người đến viếng, những người tham dự các nghi lễ đều thành tâm nghĩ đến người đã chết với những gì tốt đẹp nhất mà người đó đã làm trong lúc sinh thời.
3.3.3. Ứng xử giữa người với thế giới thần linh
Thần linh là một trong những thế lực đầy sức mạnh mà con người nể sợ. Lối sống nông nghiệp làm hình thành nên một hệ thống đa dạng các vị thần, được chia thành hai dạng thiện và ác. Ở người Khmer, quỷ thần có diện mạo rõ ràng và cùng tham gia các hoạt động của con người [Trường Lưu, 1993:115]. Chính vì thần linh có thể quyết định sự khỏe mạnh hay ốm đau, sự phồn thịnh của vùng mà con người sợ thần linh và phải cúng cho thần linh để thần linh cho họ sức khỏe và ấm no. Tuy nhiên, nhìn chung quan hệ giữa con người và thần linh là một quan hệ theo cơ chế xin-cho và người Khmer sùng bái các thế lực thần linh vì cuộc sống mưu sinh của chính bản thân mình [Trường Lưu, 1993:29].
Đối với các thần trong tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống mưu sinh của họ, họ tổ chức các nghi lễ long trọng nhằm cầu xin được mùa, cầu nước (Tết vào năm mới) và cầu nắng (lễ cúng trăng). Đối với Neakta, Arak, họ cúng để cầu xin sự bảo hộ về sức khỏe, về sự an toàn. Đối với ma quỷ họ cúng để cầu xin được bình an, không bị ma quỷ quấy phá, ám hại. Đồng thời, người Khmer tin rằng ma quỷ là những người có trách nhiệm theo dõi các linh hồn, đưa linh hồn về nhà để dự lễ cũng như rước linh hồn trở về. Vì thế họ cũng không quên cúng cho ma quỷ, họ cũng nhân đó mà cúng cho những linh hồn lang thang, vất vưởng, không nơi nương tựa.
Niềm tin về linh hồn bất diệt, về cái chết chỉ là sự chấm dứt tạm thời của thân xác, khi đó linh hồn bắt đầu một cuộc sống mới vĩnh hằng ở thế giới bên kia, một thế giới an vui của các thần linh, không sinh không diệt đã dẫn đến sự ra đời việc thờ cúng linh hồn tổ tiên, của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên và những nghi lễ xung quanh nó là cách thức mà thông qua các nghi lễ, con người tiếp xúc với đối tượng thờ cúng, tức là ông bà đã qua đời của mình.
Người Khmer thờ cúng tổ tiên rất chu đáo, bởi họ quan niệm “cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước còn nguồn mới bể rộng sông sâu” [Trần Văn Bổn, 2002:117]. Do đó, con người ta, nếu không có ông bà cha mẹ thì không thể nào có được mình ngày hôm nay. Ông bà cha mẹ không chỉ là người có ơn sinh thành, mà còn có ơn nuôi dạy cho mình thành người, dạy cho mình cách làm ăn sinh sống. Và ông bà cha mẹ còn để lại cho mình không chỉ là của cải vật chất mà còn để lại cả một đời sống tinh thần phong phú nữa. Chính vì thế mà con cháu phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Theo truyền thống, người Khmer không lập bàn thờ tổ tiên trong nhà, bởi họ đã mang hài cốt của người thân mình gửi vào chùa để đến ngày sóc vọng, lễ tết, họ đến chùa cúng bái [Trần Văn Bổn, 2002:110]. Thông qua việc mang cơm nước, bánh trái vào chùa, dâng cúng Phật và sư sãi, người Khmer tin rằng những vật dụng và thực phẩm mà họ cúng sẽ nương nhờ khói hương và lời kinh đem nguyện cầu của họ đến với ông bà cha mẹ, bởi thế giới giữa người sống và người chết “dường như luôn có một sự liên lạc mật thiết” [Trần Văn Bổn, 2002:110].
Việc thờ cúng này chính là cầu nối gặp gỡ giữa thế giới hữu hình với vũ trụ thần linh. Và người chết, dù thân xác không còn nhưng linh hồn vẫn còn. “Dương sao âm vậy” là một quan niệm khá phổ biến trong dân chúng. Người sống cần gì thì người chết cũng cần thứ đó, cũng có một cuộc sống như ở cõi dương, có nghĩa là người chết cũng cần ăn uống, tiêu dùng như người sống. Vì thế trong các lễ cầu siêu, người ta thường sắm cho người chết những vật dụng cần thiết trong gia đình, để nương nhờ tiếng kệ lời kinh, những thứ đó sẽ đến với người chết để họ có thể tiêu xài ở thế giới bên kia [Trần Văn Bổn, 2002:111].
Chính vì tin như thế, cộng với tập quán chôn trên chùa, cốt để trên chùa, nên người Khmer thờ cúng tổ tiên ở chùa. Do đó mà chùa và các sư sãi đối với họ “mang một tình cảm sâu sắc” [Trần Văn Bổn, 2002:111]. Dâng cơm, dâng lễ vật cho sư sãi sẽ giúp người thân họ có thể sống an vui ở thế giới bên kia. Vì thế, người Khmer thường mang cơm nước, bánh trái cúng chùa 6 ngày, gia đình nào làm ít cũng từ 2 đến 4 ngày, gồm mùng 8, 15, 23 và 30 âm lịch. Trước khi mang cơm, bánh trái lên chùa, người ta thắp nhang trên bàn thờ Phật trong nhà, van vái những người thân đã khuất chứng giám [Trần Văn Bổn, 2002:112].
Các lễ vật đặc biệt được dùng trong đám tang như: sla thiel, chong thbau ung và âm nhạc cũng được xem là cầu nối liên kết giữa con người và thế giới thần linh, đưa con người đến gần với thế giới thần linh.
Tang ma cũng là dịp để con người ứng xử với thế giới thần linh. Bởi khi chết, linh hồn rời khỏi thân xác, gia nhập vào thế giới của những linh hồn. Bởi linh hồn mới nên còn nhiều bỡ ngỡ, vì thế cần phải cúng cho các linh hồn khác trong tang ma để cầu mong những linh hồn cũ đó giúp đỡ cho linh hồn của ông bà mình trong giai đoạn đầu còn bỡ ngỡ.
Hơn nữa, người Khmer có tập quán cúng cho người chết khá chu đáo, những linh hồn nào không được gia đình cúng sẽ bị đói khát, không nơi nương tựa, vì thế trong tang lễ, người ta cũng cúng cho các linh hồn vất vưởng để các linh hồn này được ăn uống, không bị bỏ rơi.
Các lễ thức tang ma cho chúng ta thấy rõ văn hóa ứng xử của người Khmer, trong đó bao gồm ứng xử giữa những người sống, ứng xử giữa người sống và người chết, ứng xử giữa người và thế giới thần linh mang đậm tính cộng đồng và triết lý Phật giáo. Mỗi thành viên trong cộng đồng đều tự giác tuân thủ những nguyên tắc và đều thực hiện nó như một cách để tích phước cho ông bà, cho chính mình và cho con cháu. Điều này, đến lượt nó lại tác động ngược trở lại, tạo thành một lối sống hướng đến người khác đặc trưng ở người Khmer An Giang.
4. Kết luận và kiến nghị
Tang ma của người Khmer An Giang là một sự kiện trọng đại đánh dấu một bước chuyển đổi của con người từ thế giới vật chất sang thế giới tinh thần. Nó là hiện tượng không chỉ liên quan đến đời sống của mỗi cá nhân mà còn tương tác hữu cơ với toàn bộ hệ thống xã hội, trở thành một sự kiện xã hội của cộng đồng. Nó vừa là yếu tố cấu thành nên văn hóa tộc người đồng thời phản ánh đặc trưng văn hóa tộc người. Thông qua việc nghiên cứu về tang ma của người Khmer An Giang dưới góc độ văn hóa học, chúng tôi đưa ra một số nhận xét, đánh giá sau:
§ Hình thức chôn người chết rất phổ biến
§ Tang ma của người Khmer An Giang chịu sự chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo Tiểu thừa Teravada.
§ Lễ giã cốt là một trong những điểm đặc biệt trong tang lễ của người Khmer An Giang
§ Tính cộng đồng được thể hiện cao độ so với các dân tộc khác trong khu vực
§ Tính tự trị tạo nên sức mạnh bản địa hóa
Qua lễ tục tang ma, có thể thấy văn hóa Khmer An Giang được thể hiện rõ nét. Ý nghĩa của các lễ thức cho thấy lối sống và niềm tin của cả một cộng đồng mà lối sống và niềm tin này được chấp nhận và truyền lại qua nhiều thế hệ. Nó còn cho chúng ta thấy sức mạnh của văn hóa truyền thống của người Khmer hết sức mạnh mẽ, tạo nên những nét riêng của người Khmer An Giang, làm cho văn hóa Khmer An Giang khác với văn hóa của người Khmer ở các vùng khác.
[1] Trích dẫn được ghi theo thứ tự sau: Tên tác giả, năm xuất bản, số trang