ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ:
NGÔI CHÙA TRONG VĂN HÓA NGƯỜI VIỆT Ở BẮC BỘ
MỤC LỤC
DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5. Những đóng góp của luận văn
6. Bố cục luận văn
CHƯƠNG MỘT
NGÔI CHÙA BẮC BỘ NHÌN TRONG THỜI GIAN VĂN HOÁ
1.1. Ngôi chùa trong quá trình du nhập và phát triển của Phật Giáo ở Bắc bộ
1.1.1. Ngôi chùa trong quá trình Phật giáo du nhập
1.1.2. Ngôi chùa trong quá trình Phật giáo phát triển
1.2. Ngôi chùa trong diễn trình văn hoá Phật giáo Bắc bộ
1.21. Ngôi chùa ở cấp độ cung đình
1.2.2. Ngôi chùa ở cấp độ làng xã
Tiểu kết
CHƯƠNG HAI
NGÔI CHÙA BẮC BỘ NHÌN TRONG KHÔNG GIAN VĂN HOÁ
2.1. Ngôi chùa trong quan hệ với cảnh quan thiên nhiên
2.2. Ngôi chùa nhìn từ kiến trúc
2.3. Ngôi chùa nhìn từ cấu trúc nội thất và cách thức thờ phượng
2.3.1. Bài trí ở thượng điện
2.3.2. Bài trí ở nhà tiền đường
2.3.3. Bài trí ở hành lang
2.4. Ngôi chùa trong quan hệ với các kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng khác ở Bắc bộ
2.4.1. Ngôi chùa trong quan hệ với các kiến trúc tín ngưỡng dân gian
2.4.1.1. Chùa và đình.
2.4.1.2. Chùa và đền, miếu, phủ dân gian
2.4.2. Ngôi chùa trong quan hệ với các kiến trúc tôn giáo khác
2.4.2.1. Chùa và Văn miếu của Nho giáo
2.4.2.2. Chùa và đền quán của Đạo giáo
2.4.2.3. Chùa Phật giáo và Nhà thờ Kitô giáo
Tiểu kết
CHƯƠNG BA
NGÔI CHÙA BẮC BỘ NHÌN TỪ CHỦ THỂ VĂN HOÁ
3.1 Ngôi chùa trong đời sống văn hoá của cư dân Bắc bộ
3.1.1. Tính tổng hợp trong chức năng xã hội của ngôi chùa
3.1.2. Tính dân chủ của ngôi chùa
3.2 Ngôi chùa trong tâm thức cư dân Bắc bộ
3.2.1. Ngôi chùa trong nghệ thuật
3.2.2. Ngôi chùa trong văn chương
Tiểu kết
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Tóm tắt luận văn
Ngôi chùa trong văn hoá người Việt ở Bắc bộ
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành ba chương:
Chương 1: Ngôi chùa Bắc bộ nhìn trong thời gian văn hoá:
Chương này đề cập đến quá trình hình thành và phát triển của ngôi chùa trong thời gian văn hoá.Chương một đã phần nào giới thiệu quá trình truyền bá và phát triển của Phật giáo tại Việt Nam và đi đôi với quá trình truyền bá Phật pháp là quá trình xây dựng chùa chiền. Chương này chỉ ra được vấn đề: Phật giáo miền Bắc mà điển hình là trung tâm Phật giáo Luy Lâu chính là trung tâm đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Thậm chí trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại miền Bắc Việt Nam còn phồn thịnh hơn cả hai trung tâm Phật giáo đương thời ở Trung Quốc là Bành Thành và Lạc Dương.
Qua đó ta thấy sự gặp gỡ độc đáo giữa hai nền văn hoá Việt Nam và Ấn Độ, nói một cách cụ thể là cuộc gặp gỡ giữa văn hoá Phật giáo Ấn Độ và văn hoá nông nghiệp lúa nước Việt Nam thông qua hình ảnh độc đáo về sự kết hợp giữa sư Khâu Đà La và Man Nương. Cuộc gặp gỡ có phần phá cách và thoát ra ngoài giới luật của nhà Phật đã sản sinh ra một vị Phật của dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh đó, nội dung của chương cũng trình bày được sự khác nhau về cấp độ xây dựng giữa những ngôi chùa ở miền Bắc: chùa ở cấp độ cung đình và chùa ở cấp độ làng xã.
Những ngôi chùa ở cấp độ cung đình thường là do đích thân nhà vua hoặc các quan đại thần đứng ra lo việc xây dựng, vì thế qui mô của những ngôi chùa này thường rất bề thế và nghệ thuật trang trí điêu khắc ở những ngôi chùa này thường mang tính bác học.
Những ngôi chùa ở cấp độ làng xã thường do nhân dân đóng góp tiền bạc và tự đứng ra xây dựng, vì thế qui mô những ngôi chùa này thường nhỏ bé và nghệ thuật chạm trổ, điêu khắc trong chùa thường mang tính dân dã, bình dị.
Trên đây chính là những tiền đề để đi sâu vào tìm hiểu và phân tích vai trò của ngôi chùa Phật giáo trong đời sống cư dân miền Bắc Việt Nam.
Chương 2: Ngôi chùa Bắc bộ nhìn trong không gian văn hóa:
Chương này đề cập đến mối liên hệ của ngôi chùa với không gian văn hoá miền Bắc. Qua phần trình bày trong chương hai này, ta thấy vai trò và vị trí của ngôi chùa trong không gian văn hoá miền Bắc rất đặc thù. Đó là sự phong phú và đa dạng trong cách thức thờ tự của những ngôi chùa ở miền Bắc. Vấn đề này đã được triển khai và phân tích trên cơ sở lý luận và thực tiễn. Vì chùa miền Bắc là chùa của Phật giáo Đại Thừa, nên ngoài việc thờ cúng đức Phật, chùa còn thờ các vị Bồ Tát, các vị thần và cộng với việc hỗn dung cùng tín ngưỡng bản địa nên các vị anh hùng dân tộc, các vị thần thánh của người Việt cũng được thờ trong chùa của Phật giáo. Đặc biệt chương này còn chỉ ra được ảnh hưởng của triết lý âm dương, triết lý phồn thực của người Việt đối với việc thờ cúng ở những ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam.
Trong khía cạnh kiến trúc cho chúng ta cảm nhận được sự hài hoà tinh tế giữa kiến trúc ngôi chùa với cảnh quan thiên nhiên đồng bằng Bắc bộ, và thể hiện được văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của người dân Bắc bộ thể hiện qua việc xây dựng chùa.
Sự tương đồng và dị biệt trên mọi phương diện của ngôi chùa Phật giáo tại Bắc bộ và các kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác thật là phong phú và đặc sắc.
Giữa chùa và đình ở miền Bắc Việt Nam có nhiều điểm chung trên phương diện kiến trúc. Từ kiểu thức kiến trúc cho đến các mái đầu đao uốn cong .vv…đều mang nặng dấu ấn đời sống tâm linh của văn hoá Việt. Ngoài những vấn đề giống nhau, chương này cũng chỉ ra được sự khác biệt cơ bản trong đối tượng thờ cúng giữa chùa và đình. Nếu như chùa được lập ra để thờ Phật thì đình được lập ra để thờ các vị thần Thành hoàng của làng. Nếu như chùa là sản phẩm kết tinh của văn hoá Phật giáo và văn hoá Việt Nam thì đình là sản phẩm thuần tuý của tổ chức làng xã nông nghiệp Việt Nam.
Sự tương quan giữa chùa và những nơi thờ phụng dân gian khác như đền, miếu, phủ ở miền Bắc cũng thật rõ nét. Tuy những nơi thờ phượng dân gian này khó có thể so sánh với chùa về mức độ hoành tráng, nhưng giữa chúng có những nét tương đồng đến lạ kỳ về kiểu thức kiến trúc và cách thức bài trí bên trong. Tất cả những kiến trúc này đều có một điểm chung là rất gần gũi với văn hoá dân tộc.
Kiến trúc của chùa và Văn miếu của Nho giáo cũng có nhiều điểm rất giống nhau. Điểm khác biệt cơ bản là Văn miếu của Nho giáo được lập nên để thờ Khổng tử và các vị thánh hiền thì chùa của Phật giáo lập nên để thờ Phật và các vị Bồ Tát. Điều khác biệt đáng lưu ý nữa là đối tượng thờ cúng của Nho giáo nếu xét về mặt giới tính thì chỉ thuần tuý là nam giới trong khi đối tượng thờ cúng của Phật giáo thì lại bao gồm cả nam lẫn nữ.
Ở miền Bắc Việt Nam hiện vẫn đang còn hiện tượng Tam giáo đồng nguyên trong những nghi lễ và cách thức thờ cúng giữa Phật giáo và Đạo giáo. Những điều này thể hiện rõ nhất ở Bích Câu đạo quán và Linh Tiên đạo quán.
Khi đi tìm hiểu kiến trúc của ngôi chùa Phật giáo và nhà thờ Ki tô giáo tại miền Bắc Việt Nam, chúng ta thấy ngôi chùa Phật giáo và nhà thờ Kitô giáo có nhiều điểm tương đồng và dị biệt. Nhưng giữa chúng có những quan hệ rất mật thiết với nhau. Nếu như kiến trúc của nhà thờ Tây hoàn toàn đối lập với kiến trúc của chùa thì ngược lại kiểu thức kiến trúc theo lối nhà thờ Nam lại rất gần gũi với ngôi chùa trên nhiều phương diện. Đó chính là nét hài hoà độc đáo mang đậm tính dân tộc trong kiến trúc các tôn giáo tại Việt Nam.
Chương 3: Ngôi chùa Bắc bộ nhìn từ chủ thể văn hoá
Chương này đề cập đến vai trò văn hoá của ngôi chùa trong đời sống của cư dân Bắc bộ
Qua phần khái quát trong chương ba, ta thấy vai trò văn hoá của ngôi chùa Bắc bộ rất to lớn và đa dạng. Nó cũng nói lên được vai trò quan trọng của ngôi chùa đối với đời sống nhân dân miền Bắc trong lịch sử và hiện tại. Chùa là nơi thờ cúng là trường học và đôi khi còn là cơ sở y tế của cộng đồng, là nơi diễn ra hội hè đình đám và khi chết đi thì người ta gởi thân về cửa Phật. Những lúc gặp những đau buồn trong cuộc sống thì chùa chính là nơi chốn dễ chia sẽ và cảm thông với những đau buốn mất mát đó. Ngôi chùa phần nào giúp họ vơi đi những lo lắng, dằn vặt và sầu muộn bằng giáo lý từ bi, bình đẳng và khoan dung của đạo Phật. Khi nói đến vai trò của ngôi chùa ở Bắc bộ chúng ta phải nói đến tính tổng hợp trong chức năng xã hội của ngôi chùa. Ngôi chùa bao quát nhiều khía cạnh trong đời sống tâm linh, văn hoá đối với những ai nương tựa vào mình.
Trong nội dung của chương ba cũng đề cập đến một trong những đặc tính cơ bản cuả ngôi chùa Bắc bộ là tính dân chủ. Mọi người đều có thể đến chùa tham gia vào sinh hoạt chốn thiền môn theo cách riêng của mình mà không hề bị ngăn cấm hoặc phân biệt đối xử. khi đến với chùa thì giàu nghèo, sang hèn, trí thức, bình dân đều không còn là vấn đề quan trọng, quan trọng nhất chính là tấm lòng của người đến mà thôi. Đến chùa sẽ tạo cho du khách một cảm nhận bình an khi được bình đẳng trước mọi người và trước các mặt trong sinh hoạt của ngôi chùa.
Bân cạnh đó, ngôi chùa còn có vị trí quan trọng trong tâm hồn cư dân Bắc bộ. Điều đó được thể hiện qua đời sống văn học và nghệ thuật mà nhân dân, các nhà thơ, nghệ sỹ đã dung hình ảnh ngôi chùa như một nguồn cảm hứng, một đối tượng trung tâm để khai thác nghệ thuật.
KẾT LUẬN
Kể từ khi Phật giáo được du nhập và phát triển ở nước ta cho đến ngày nay, rất nhiều ngôi chùa đã được xây dựng và trùng tu. Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước đầy bi hùng của Tổ quốc chúng ta, Phật giáo luôn sát cánh cùng với dân tộc, luôn đứng về phía dân tộc, lúc hạnh phúc cũng như lúc khổ đau. Phật giáo đã xem dân tộc như một bà mẹ hiền che chở và cưu mang mình và theo chiều ngược lại bà mẹ hiền Việt Nam cũng đã nhiều lần nương tựa vào Phật giáo để huy động sức dân và kêu gọi lòng ái quốc của nhân dân trong những lúc vận nước nghiêng nghèo.
Đồng bằng Bắc bộ là địa bàn xuất phát của tộc Việt, vì vậy nơi đây còn lưu giữ được tính chất thuần tuý của văn hoá Việt Nam. Hơn nữa đây chính là nơi Phật giáo được truyền lần đầu tiên vào nước ta và miền Bắc Việt Nam với trung tâm Phật giáo Luy Lâu đã từng là một trung tâm Phật giáo phát triển rực rỡ trong nhiều thế kỷ nên đây là không gian địa lý phù hợp để bước đầu nghiên cứu về văn hoá của ngôi chùa.
Vì Phật giáo đến với người Việt bằng con đường hoà bình và giáo lý của Đức Phật rất phù hợp với tâm tư và tình cảm của người Việt nên đã được nhân dân Việt Nam đón tiếp, tin tưởng và cưu mang. Người Việt ở đồng bằng Bắc bộ xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần gũi với họ. Vì thế trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp mọi nơi, từ thành thị đến thôn quê. Có thể nói những nơi sơn thuỷ hữu tình, những mảnh đất thiêng liêng và được tôn trọng, không đâu là không có chùa thờ Phật.
Chính vì toàn thể nhân dân và các triều đại trị vì đồng lòng tin tưởng đạo Phật như thế nên những ngôi chùa đã được nhiều tầng lớp xây dựng. Những ngôi chùa do vua quan đích thân đốc thúc việc xây dựng thì gọi là chùa ở cấp độ cung đình, quốc gia, những ngôi chùa do nhân dân xây dựng thì nhỏ bé hơn và được gọi là những ngôi chùa ở cấp độ làng xã.
Chùa miền Bắc Việt Nam là chùa của Phật giáo Đại Thừa nên việc thờ phụng rất đa dạng. Ngoài việc thờ cúng đức Phật lịch sử, chùa miền Bắc còn thờ cúng các vị bồ tát, các vị thánh thần, các anh hùng dân tộc. Đây cũng là một đặc điểm đáng lưu ý của chùa miền Bắc. Bên cạnh sự tôn thờ những hình tượng của tôn giáo thì người dân vẫn luôn hướng về cội nguồn, trân trọng, tôn thờ những người đã có công với đất nước, những người đã mang lại cho họ sự bình yên, no ấm mà họ có thể nhìn thấy được, cảm nhận được. Đó chính là một nét đẹp, đáng trân trọng trong truyền thống văn hóa “uống nước nhớ nguồn” của người dân Bắc bộ.
Ngoài ra cách thờ cúng trong ngôi chùa còn thể hiện tính khoan dung tôn giáo rất cao, nên những thần thánh của tín ngưỡng dân gian Việt Nam đôi khi cũng được bài trí trong chùa như Mẫu Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử… Thậm chí đôi khi những vị thần thánh này còn có vai trò quan trọng như là đối tượng thờ cúng chính trong chùa, điển hình cho trường hợp này là việc thờ cúng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện.
Do mối quan hệ thân thương và gần gũi với đời sống của cư dân như vậy nên vai trò của ngôi chùa trong đời sống nhân dân miền Bắc là rất quan trọng. Chùa không chỉ là nơi để thực hiện các lễ nghi tôn giáo mà còn là trường học, thậm chí trong một vài trường hợp đặc biệt chùa còn là cơ sở y tế, văn hoá, giáo dục của cộng đồng dân cư. Trong kháng chiến, nhiều ngôi chùa còn là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng, góp phần không nhỏ cho thắng lợi của dân tộc.
Từ lúc mới lọt lòng cho tới khi biết đọc chữ, tới tuổi biết giận hờn, thương ghét, lúc đã thành đạt hay khi sắp lìa khỏi cõi trần, dù là người cao sang hay là kẻ thấp hèn, dù ở thành thị hay giữa chốn quê mùa, đối với phần đông người dân Bắc bộ, hình ảnh ngôi chùa vẫn luôn hiện hữu trong họ như là một điểm tựa thiêng liêng, một nơi chốn bình an, tin cậy nhất để họ được nương náu, vỗ về, để họ có thể mong cầu tìm thấy những gì tốt đẹp nhất trong vô vàn những khao khát của mình. Ngôi chùa không chỉ là một điểm đến tâm linh của những người ít nhiều có hiểu biết về Phật pháp hoặc có ước muốn tìm hiểu về nó mà còn là nơi để bất cứ ai cũng có thể tới để làm lắng dịu lòng mình, để mà chiêm nghiệm cuộc sống sau một quãng đường dài mệt mỏi với những lo toan, ưu phiền và cả những thành công, thất bại. Ở đó không có sự bất công, phân biệt đối xử giữa kẻ hèn, người sang để khiến người ta phải ngại ngùng, e sợ; chỉ có sự bảo bọc, yêu thương và che chở. Ngôi chùa là nơi người dân Bắc bộ tìm đến những khi gia đình họ gặp chuyện chẳng lành, là nơi an ủi họ mỗi khi cuộc sống gặp khó khăn, trắc trở, là nơi để họ tìm kiếm những lời khuyên răn mà sống sao cho tốt hơn, cư xử sao cho phải đạo hơn, là nơi để họ có thể thoải mái giãi bày những tâm tư thầm kín không thể nói với ai; tóm lại, là nơi để họ có thể trút hết nỗi lòng không một chút băn khoăn, do dự, và nhờ vậy họ cảm nhận cuộc sống trở nên dễ chịu, tốt đẹp hơn. Bất cứ điều gì, cái gì làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn thì đều đáng được ngợi ca, trân trọng. Người ta hướng về ngôi chùa như hướng tới những gì chân, thiện nhất, những gì là hoàn hảo nhất và bởi vậy đó cũng là nơi để họ gửi gắm những ước vọng (kể cả tham vọng) của mình, mặc dù đó là những mong muốn có khi hết sức đời thường, trần tục, có vẻ như rất xa cách với những điều thanh tao, cao quí nơi cửa Phật. Vì lẽ đó mà hình tượng ngôi chùa cứ tự nhiên bước vào cuộc sống của người dân, hết sức bình dị, thân thương và gần gũi. Những sinh linh bé bỏng, vô tội nhiều khi cũng được phó thác nơi cửa chùa và được những tấm lòng nhân ái chở che, nuôi dưỡng nên người để tiếp tục cứu vớt những số phận kém may mắn khác. Rất xa nhưng lại rất gần, đó là những gì mà người ta có thể cảm nhận khi bước vào chốn thiền môn.
Vì những cảm nhận đó từ hình ảnh ngôi chùa, từ sự cao quí đến mức lung linh, tinh khiết, từ sự gần gũi đến độ như gia đình, như máu thịt, lẽ tất nhiên hình ảnh ngôi chùa không thể vắng bóng trong những tác phẩm văn học, nghệ thuật, nơi mà tình cảm của con người có nhiều cơ hội để giãi bày, để thăng hoa nhất. Vẻ đẹp, sự thân thiện và cả sự mầu nhiệm của những ngôi chùa đã là nguồn cảm hứng dồi dào tạo nên vô vàn những áng văn thơ, những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng. Từ những tao nhân mặc khách, những học giả hào hoa đến những đấng vương gia sống trong cảnh giàu sang quyền quí cũng đều có thể động lòng trước cảnh thâm u, trầm mặc và thanh tao của cảnh chùa, trước những giáo lí ngời ngời của nhà Phật, để từ đó cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật để đời, những vần thơ, những lời ca bay bổng hay mang đậm tính triết lí sâu sa để người đời còn mãi muốn nghe, muốn ngẫm… Bóng dáng ngôi chùa cũng còn được bắt gặp từ những tác phẩm dân dã, giản dị nhất xuất phát từ chốn thôn quê, được tạo nên, được truyền miệng bởi những người dân quê mùa, chất phác...nhưng không kém phần sắc sảo, tinh tế, đôi khi còn dí dỏm… Từ một vị trí sâu sa trong tâm tư, tình cảm của người dân Bắc bộ, hình ảnh ngôi chùa đã cất cánh bay bổng, đầy xúc cảm và trí tuệ trong những kiệt tác nghệ thuật, những áng thơ ca…, như những đóa sen tỏa ngát hương thơm mà con người muôn đời còn muốn chiêm ngưỡng, ngợi ca. Hình ảnh ngôi chùa hiện diện khắp nơi, từ những nơi bình dị nhất đến những nơi vương giả nhất. Có thể nói văn học Phật giáo đã được sáng tác từ cảm hứng chủ đạo là hình ảnh của ngôi chùa.
Ngôi chùa là sản phẩm của văn hoá Việt Nam nên kiểu thức kiến trúc của chùa rất gần với kiểu thức kiến trúc của ngôi nhà Việt Nam cũng như những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng khác ở Bắc bộ. Hiện tượng gặp gỡ và giao thoa trên phương diện kiến trúc giữa Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo là một sự thật lịch sử vì rằng những kiến trúc này đều xuất phát từ cội nguồn cảm hứng của nền văn hoá Việt, đều được tạo dựng bởi những bàn tay tài hoa của những nghệ nhân người Việt mang nặng tấm lòng với văn hoá Việt Nam.
Ngoài mặt tương đồng với các kiến trúc tôn giáo truyền thống, chùa của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ có những khác biệt rất cơ bản với kiến trúc của nhà thờ Ki tô giáo. Tuy nhiên, một số nhà thờ Ki tô giáo cũng có ý thức quay về với truyền thống văn hoá dân tộc nên kiến trúc của chúng cũng có những nét tương đồng với kiến trúc của chùa Phật giáo.
Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa luôn đồng hành cùng đời sống văn hoá và tâm linh của cộng đồng cư dân người Việt ở Bắc bộ. Ngôi chùa luôn đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của những người dân ở đây. Có thể nói những vui buồn, những tâm sự thầm kín và cả những ước mơ của người dân Bắc bộ thường được gởi gắm nơi cửa chùa. Chùa là nơi để người dân gặp gỡ, cầu nguyện và là nơi để sinh hoạt hội hè. Từ lúc tấm bé, phần đông những cư dân đồng bằng Bắc bộ đã theo mẹ, theo bà lên chùa lễ Phật. Khi trưởng thành, cảnh chùa là nơi để nam thanh nữ tú gặp gỡ hẹn hò và đến khi từ giã cuộc đời, họ lại được tiễn đưa bằng những câu kinh tiếng kệ nhà Phật. Như vậy có thể nói, đối với phần đông cư dân đồng bằng Bắc bộ, cuộc đời của họ bắt đầu bằng tiếng chuông chùa và kết thúc bằng những lời kinh giải thoát của đạo Phật.
Lịch sử và hiện tại đã chứng minh rằng, vị trí của những ngôi chùa đối với cư dân đồng bằng Bắc bộ thật là thiêng liêng và gần gũi. Và có lẽ trong tương lai, ngôi chùa vẫn luôn là yếu tố quan trọng và cần thiết đối với đời sống của người dân nơi đây.