ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về văn hóa và văn hóa ứng xử
1.2 Cơ sở lịch sử – xã hội hình thành văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi
1.2.1. Thân thế, hành trạng và di sản
1.2.2. Bối cảnh thời đại và tư tưởng
CHƯƠNG 2: VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA TRUNG HOA
CHƯƠNG 3: VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG QUAN HỆ VỚI VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trong quan hệ với môi trường
xã hội
3.1.1. Trên bình diện tổ chức đời sống tập thể
3.1.2. Trên bình diện tổ chức đời sống cá nhân
3.2. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trong quan hệ với môi trường
tự nhiên
3.2.1. Trên bình diện vật chất: ăn, mặc, ở, đi lại
3.2.1. Trên bình diện tinh thần: quan niệm và thái độ đối với tự nhiên
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Trãi là nhà văn hóa lớn của dân tộc và là danh nhân văn hóa thế giới. Qua tìm hiểu về văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi trên hai trục quan hệ chính là quan hệ với các nền văn hóa bên ngoài (tiêu biểu là với văn hóa Trung Hoa) và quan hệ trong nội bộ của nền văn hóa dân tộc, chúng tôi làm rõ những luận điểm chính sau:
Trong một thời đại đầy biến động, có tính chất bản lề của lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy một cách xuất sắc truyền thống văn hóa dân tộc trong quan hệ với Trung Hoa. Đó là văn hóa ứng xử mang đậm những đặc trưng cơ bản của một nền văn hóa gốc nông nghiệp như dung hợp trong tiếp nhận và mềm dẻo, hiếu hòa trong ứng phó.
Trong ứng phó, trước giặc Minh hơn hẳn chúng ta về thế và lực, với tư cách là nhà tư tưởng của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã đề ra các chiến lược và sách lược hợp lý. Nguyễn Trãi nêu cao tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa, tập hợp lực lượng, dựa vào dân và phát huy truyền thống đoàn kết trên cơ sở tính cộng đồng của văn hóa dân tộc. Đây là nền tảng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn. Về mặt chiến lược, trong khi tương quan lực lượng giữa ta và địch không cân sức, Nguyễn Trãi đã xây dựng chiến lược kháng chiến trường kỳ và đấu tranh linh hoạt trên tất cả các bình diện chính trị, quân sự, ngoại giao gắn với yêu cầu của từng giai đoạn cụ thể. Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa (1418 – 1424), nghĩa quân chủ yếu vận dụng lối đánh du kích thiên biến vạn hóa trong truyền thống quân sự của dân tộc. Khi lực lượng vững mạnh, nghĩa quân kết hợp đánh du kích với đánh chính quy, đặc biệt là kết hợp với chiến thuật “tâm công” đặc sắc trên bình diện chính trị, ngoại giao mà Nguyễn Trãi là người trực tiếp đề xuất và thực hiện. Sự vận dụng linh hoạt và tổng hợp trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao đã có ý nghĩa quyết định trong việc đạt được thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình chiến đấu và khi cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, Nguyễn Trãi đều thể hiện rõ nét truyền thống nhân đạo, hiếu hòa và ước muốn hòa bình lâu dài cho dân tộc khi cấp lương thực, phương tiện cho giặc về nước đồng thời buộc giặc Minh phải cam kết đảm bảo tình hòa hiếu giữa hai dân tộc.
Trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai, Nguyễn Trãi là tấm gương sáng trong việc đứng vững trên cơ sở của truyền thống văn hóa dân tộc để tiếp thu và tiếp biến. Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng Nho giáo sâu sắc, tự nhận mình là nhà Nho, nhưng Nguyễn Trãi trước hết là một trí thức dân tộc, một người yêu nước, thương dân. Nguyễn Trãi đã tiếp nhận những phần tích cực nhất của tư tưởng Nho giáo và tiếp biến, vận dụng sáng tạo trên cơ sở truyền thống văn hóa dân tộc. Nhân nghĩa vốn là phạm trù trung tâm của Nho giáo, chỉ mối quan hệ giữa người với người có phần chung chung, được Nguyễn Trãi vận dụng gắn với nội dung cụ thể là yêu nước, thương dân và lý tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết là chí nhân, đại nghĩa, an dân. Nguyễn Trãi cũng tiếp nhận cả Phật giáo và Đạo gia, nhưng hai hệ tư tưởng này đã được Nguyễn Trãi tiếp biến theo hướng tích cực. Về cơ bản, tư tưởng Phật giáo và Đạo gia thiên về xuất thế, nhưng Nguyễn Trãi trước sau vẫn là con người nhập thế. Ông tiếp biến Phật và Đạo thành những yếu tố làm phong phú thêm cho nhận thức và ứng xử của mình. Đó là tinh thần phóng khoáng, coi nhẹ lợi danh, coi trọng sự di dưỡng tinh thần và cốt cách, sống giản dị và hòa nhập với thiên nhiên. Tư tưởng Tam giáo hòa quyện ở Nguyễn Trãi nhưng tinh thần nhập thế ở Nguyễn Trãi vẫn nổi bật, vừa phản ánh truyền thống dung hợp trong tiếp nhận của văn hóa dân tộc, vừa phản ánh những đặc điểm riêng của thời đại Nguyễn Trãi – thời đại Nho giáo chiếm ưu thế, gắn với nhu cầu tổ chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
Trong nội bộ của nền văn hóa Việt Nam, Nguyễn Trãi đã có những đóng góp xuất sắc, góp phần quan trọng vào việc phát triển và nâng nền văn hóa dân tộc lên một tầm cao mới. Nguyễn Trãi đã có công lớn trong việc đưa cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đến thắng lợi cuối cùng và để lại những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu về nghệ thuật quân sự, về chiến lược chính trị, ngoại giao, làm giàu thêm truyền thống linh hoạt và tổng hợp của văn hóa Việt Nam trong chiến tranh giữ nước, xây dựng tình hòa hiếu giữa các dân tộc. Trong đó, nổi bật lên đóng góp của ông về chiến lược “tâm công”, “địch vận”. Những bức thư “tâm công”, “địch vận” của Nguyễn Trãi vừa thể hiện tư tưởng chính trị, quân sự, ngoại giao thiên tài, vừa là những áng văn chính luận đặc sắc, góp phần đưa văn chính luận dân tộc lên một tầm cao mới.
Trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc Minh mười năm gian khổ, Nguyễn Trãi càng nhận thức sâu sắc hơn về nhân dân, đất nước, về bản sắc văn hóa, đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử tư tưởng – nhận thức của dân tộc. Ông cũng là người có đóng góp lớn trong lĩnh vực tổ chức đời sống xã hội, nhất là việc góp phần xác lập một mô hình chính trị – xã hội mới, tiến bộ, phù hợp với bước phát triển của đất nước sau thời kỳ suy vi cuối thế kỷ XIV và sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc Minh. Ông luôn kiên định với lý tưởng và lập trường của mình trong việc xây dựng một bộ máy chính quyền vì nước, vì dân. Bi kịch cuối đời của Nguyễn Trãi là bi kịch có tính tất yếu của một con người quá trung thực, quá lý tưởng đến mức ảo tưởng trong hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của thời đại ông, nhưng bi kịch đó cũng phần nào cho thấy rõ nét hơn một nhân cách lớn. Ông đã không tính toán thiệt hơn cho cuộc sống cá nhân trong lựa chọn, ứng xử của mình.
Những ứng xử trên các bình diện thuộc đời sống cá nhân cũng như trong quan hệ với các phương diện thuộc ứng xử với môi trường tự nhiên cũng cho thấy một Nguyễn Trãi có ý thức sâu sắc về việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nguyễn Trãi chính là tấm gương sáng trong việc bảo vệ và giữ gìn đạo đức, phong tục, đặc biệt là ngôn ngữ dân tộc. Ông là người góp phần trong việc nâng tiếng Việt văn học lên một tầm cao mới mà chỉ với phần còn lại của Quốc âm thi tập cũng cho thấy rõ điều đó.
Nguyễn Trãi thật xứng đáng là nhà văn hóa lớn như UNESCO đã từng tôn vinh. Văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi là bài học lớn về nhân cách, tài năng. Việc nghiên cứu và phổ biến rộng rãi văn hóa ứng xử của Nguyễn Trãi có ý nghĩa giáo dục to lớn, góp phần vào việc hình thành nhân cách, giáo dục lòng yêu nước cho các thế hệ về sau.