CON ĐƯỜNG DI SẢN THẾ GIỚI Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1.1. Văn hóa và di sản văn hóa
1.1.2. Du lịch văn hoá và văn hoá du lịch
1.2. Một số di sản thế giới của Việt Nam ở miền Trung
1.2.5. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA CON ĐƯỜNG DI SẢN THẾ GIỚI MIỀN TRUNG
2.1. Tổng quan hoạt động du lịch tại khu vực miền Trung
2.2. Hoạt động du lịch tại Thừa Thiên - Huế
2.3. Hoạt động du lịch tại Quảng Nam
2.4. Hoạt động du lịch tại Tây Nguyên
CHƯƠNG 3: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA CON ĐƯỜNG DI SẢN THẾ GIỚI Ở MIỀN TRUNG
3.1. Sự liên kết văn hóa trong du lịch của Con đường di sản thế giới ở miền Trung
3.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu du lịch Con đường di sản thế giới ở miền Trung
3.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
3.3.1. Định hướng bảo tồn di sản văn hoá
3.3.2. Phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
PHỤ LỤC 3
TÓM TẮT LUẬN VĂN:
CON ĐƯỜNG DI SẢN THẾ GIỚI Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC
- Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc. Du lịch đã tìm thấy ở văn hóa những giá trị to lớn, từ đó khai thác một cách có hiệu quả những giá trị văn hóa, tạo nên những sản phẩm du lịch đặc sắc phục vụ cho sự phát triển du lịch.
- Cũng như văn hóa, di sản văn hoá có mối quan hệ và tác động qua lại với sự phát triển du lịch. Di sản văn hóa là nguồn tài nguyên vô giá phục vụ cho du lịch, thúc đẩy du lịch phát triển. Phát triển du lịch hợp lí, khoa học làm giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với di sản văn hoá, đồng thời góp phần vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá của di sản.
- “Con đường di sản thế giới miền Trung” là một hệ thống tuyến điểm du lịch mang những giá trị văn hóa đặc sắc nhất ở nước ta với những sản phẩm du lịch độc đáo của vùng văn hóa, vùng du lịch miền Trung và Tây Nguyên, là nơi tập trung hầu hết (6 trong 7) các di sản thế giới của Việt Nam đã được tổ chức thế giới UNESCO công nhận, bao gồm: Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Đô thị cổ Hội An, Thánh địa Mĩ Sơn, Phong Nha Kẻ Bàng, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên. Việc khai thác thế mạnh của các di sản văn hoá thế giới phục vụ phát triển du lịch trong những năm qua đã được các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên chú trọng. Chính những hoạt động du lịch khai thác các sản phẩm du lịch đặc sắc, trong đó có các di sản thế giới ở miền Trung đã góp một phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội.
- Thực tiễn phát triển du lịch miền Trung nói chung, việc khai thác các di sản văn hoá thế giới ở khu vực này nói riêng cũng đã đặt ra nhiều vấn đề bất cập cần giải quyết. Điều đó khiến cho ngành du lịch chưa khai thác được một cách thật hiệu quả những giá trị của các di sản ở miền Trung với tư cách là một “hệ thống di sản…” , “con đường di sản…” . Mặt khác, việc thiếu một kế hoạch phát triển tổng thể có tính chiến lược với sự phối hợp của các ban ngành và địa phương liên quan trong phát triển du lịch miền Trung không chỉ hạn chế việc phát huy thế mạnh văn hóa của di sản mà còn tiềm ẩn những nguy cơ đối với việc bảo tồn di sản mà thực tiễn du lịch Việt Nam và thế giới đã cho thấy.
- Đến nay, những đòi hỏi về những am hiểu tường tận hơn về văn hóa, về những giá trị di sản văn hóa theo cách nhìn văn hóa học cũng như việc nghiên cứu mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa và du lịch, từ đó khai thác một cách hiệu quả, hợp lí giá trị của các di sản văn hóa để tạo nên những sản phẩm du lịch đặc sắc, đồng thời góp phần giữ gìn, bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống qua hoạt động du lịch ở miền Trung thật sự là việc làm cần thiết chưa được các công trình nghiên cứu văn hóa và du lịch quan tâm đúng mức.
Đề tài “Con đường di sản thế giới ở miền Trung Việt Nam từ góc nhìn văn hóa học” được chọn để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành văn hóa học với mong muốn hiểu biết nhiều hơn giá trị của các di sản văn hóa thế giới tại miền Trung, hình thành tuyến điểm du lịch trên cơ sở liên kết những giá trị văn hóa mang nét đặc thù của từng khu vực trong hệ thống di sản thế giới ở miền Trung, tạo ra sản phẩm du lịch mới hấp dẫn, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Văn hóa và di sản văn hóa
- Khái niệm “ văn hóa”
- Khái niệm “di sản văn hóa”
- Di sản văn hoá vật thể
- Di sản văn hoá phi vật thể
- Di sản văn hoá thế giới
Tháng 11 năm 1972, Ban di sản thế giới của UNESCO được thành lập, đã đưa ra qui định về di sản văn hoá thế giới như sau:
“Các di sản văn hóa thế giới phải:
1) Thể hiện mọi tuyệt tác thiên tài sáng tạo của con người
2) Hoặc chứng thực một sự giao lưu các ảnh hưởng lớn lao trong một thời kỳ nhất định hoặc trong một vùng văn hoá đã được xác định, trên lĩnh vực phát triển kiến trúc, các nghệ thuật công trình kỷ niệm qui hoạch đô thị hay tạo dựng phong cảnh
3) Hoặc đem lại một bằng chứng duy nhất, hoặc ít ra cũng là đặc biệt về một truyền thống văn hoá hay một nền văn minh đang sống động hay đã biến mất
4) Hoặc đưa ra một ví dụ tiêu biểu về một kiểu xây dựng tổng thể kiến trúc hoặc phong cảnh minh họa một trong những thời kỳ có ý nghĩa lịch sử của nhân loại
5) Hoặc là một ví dụ tiêu biểu về định cư của người hoặc sự chiếm đóng một lãnh thổ vốn mang tính truyền thống và tiêu biểu cho một hoặc nhiều nền văn hoá, nhất là khi lãnh thổ ấy trở nên dễ bị xâm phạm dưới ảnh hưởng của nhiều đột biến không thể ngăn chặn
6) Hoặc can dự trực tiếp hoặc bằng vật chất vào những sự kiện hoặc những truyền thống sống động, các tư tưởng, các tín ngưỡng hay tác phẩm nghệ thuật và văn học có một ý nghĩa phổ quát đặc biệt".
[Bùi Đẹp 2004: 13].
Trên cơ sở đó, các di sản thế giới ở nước ta được UNESCO công nhận bao gồm Vịnh Hạ Long, Đô thị cổ Hội An, Phong Nha Kẻ Bàng, Thánh địa Mỹ Sơn, Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế và Không gian Văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.
1.1.2. Du lịch văn hoá và văn hoá du lịch
¬ Du lịch và sản phẩm du lịch
- Du lịch
- Sản phẩm du lịch
¬ Quan hệ giữa văn hoá và du lịch
Mối quan hệ giữa văn hoá và du lịch là mật thiết. Nếu thiếu tính văn hoá trong hoạt động du lịch thì du lịch không thể tồn tại và phát triển. Ngược lại, du lịch cũng làm tròn chức năng khám phá, chuyển tải, giới thiệu và giao lưu văn hoá.
Những nét đặc sắc của văn hoá chính là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch. Trong mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và du lịch cần phải nói đến yếu tố kinh tế. Chính hoạt động du lịch thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Từ sự phát triển đó, đời sống của con người sẽ được nâng cao trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Khi đời sống con người đã được nâng cao thì đời sống văn hoá sẽ phát triển như là một hệ quả tất yếu của quá trình này.
Có thể nói, văn hoá chính là tài nguyên hấp dẫn và tiềm tàng của ngành du lịch. Những tài nguyên văn hoá thiên nhiên như động Phong Nha, vịnh Hạ Long ở Việt Nam… đã lôi cuốn du khách bởi vẻ đẹp hoang sơ và kỳ bí của chúng. Các tài nguyên văn hoá phi vật thể như Nhã nhạc cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên đã khiến du khách rất ngạc nhiên, thích thú khi thưởng thức. Những tài nguyên văn hoá như cố đô Huế, đô thị cổ Hội An… đã và đang khiến du khách đến với miền Trung.
Tài nguyên văn hoá của một dân tộc chính là điểm tựa chắc chắn cho ngành du lịch phát triển. Ví dụ : Angkor Wat, Angkor Thom ở Campuchia. Hàng chục nghìn người đến Lumbini để chiêm bái nơi Đức Phật ra đời, hàng vạn du khách viếng thăm thành phố Lahsa, thủ đô của Tây Tạng hay Vạn lý trường thành của Trung Quốc mỗi ngày…là cơ sở khẳng định thêm sức mạnh của văn hoá đối với sự phát triển ngành du lịch.
Việt Nam có một bề dày về lịch sử văn hóa. Văn hóa Việt Nam mang một bản sắc riêng, độc đáo. Du khách đến Việt Nam ngạc nhiên và bị hấp dẫn trước một nền văn hoá đa tộc người cùng với các loại hình mỹ thuật, kiến trúc, âm nhạc dân tộc, sân khấu dân tộc, lễ hội, nghệ thuật ẩm thực.v.v…có sức thu hút mạnh mẽ.
Có thể xem văn hoá Việt Nam chính là điểm tựa vững chắc nhất của du lịch Việt Nam trên bước đường hội nhập với du lịch khu vực và du lịch thế giới. Vì quan hệ giữa văn hoá và du lịch mang tính biện chứng, bản thân hoạt động du lịch cũng có những tác động ngược trở lại đối với văn hóa:
- Du lịch là một phương tiện của văn hoá. Quốc gia nào cũng muốn quảng bá nền văn hoá của mình ra thế giới. Ngoài những phương tiện quảng bá văn hoá truyền thống thông qua giáo dục, truyền hình, xuất bản sách v.v… còn phải kể đến vai trò quảng bá văn hoá của du khách.
- Du lịch ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của văn hoá, kinh tế, xã hội. Du lịch được xem là ngành công nghiệp không khói. Những hoạt động của du lịch đã tạo ra được việc làm, tạo ra được đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển kinh tế của xã hội. Du lịch giúp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền và hiện đại; tạo ra nguồn thu làm kinh phí để trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa… Du lịch thúc đẩy sự hiểu biết và đối thoại về chính trị, chính sách kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia.
¬ Văn hoá du lịch và du lịch văn hoá
- Văn hoá du lịch
- Du lịch văn hoá
Tuy cùng có liên quan đến hai khái niệm văn hoá và du lịch, nhưng "văn hóa du lịch” và "du lịch văn hóa” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Nếu như văn hoá du lịch được xem như là tổng thể phức hợp của nhiều hiện tượng, giá trị văn hoá thông qua hoạt động du lịch, thì du lịch văn hoá chỉ đơn thuần là một loại hình du lịch nhằm phục vụ cho một đối tượng rõ ràng, đó là những du khách có nhu cầu khám phá và học hỏi về văn hoá.
"Văn hoá du lịch” và "du lịch văn hoá" có quan hệ mật thiết với nhau. Hai lĩnh vực này quy định và ràng buộc lẫn nhau. Du lịch văn hoá sẽ khó tồn tại nếu như những người tham gia vào hoạt động du lịch không hội đủ yếu tố "văn hoá du lịch". Có thể nói, văn hoá du lịch chính là nền tảng, là động lực cơ bản để cho du lịch văn hoá phát triển.
1.2. Giới thiệu một số di sản thế giới của Việt Nam ở miền Trung : Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Đô thị cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA CON ĐƯỜNG DI SẢN THẾ GIỚI
Ở MIỀN TRUNG
Từng được biết đến như là một dải đất cơ cực, nghèo khó nhưng so với các vùng miền khác trong cả nước, các tỉnh miền Trung, mà cụ thể là Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và 5 tỉnh Tây Nguyên đang nắm giữ nhiều lợi thế về du lịch. Điểm nổi bật là ở khu vực này có đến 3 di sản văn hóa vật thể, 2 di sản văn hóa phi vật thể và lại nằm kề di sản thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng.
Nếu như trước đây ngành du lịch miền Trung chỉ tập trung vào thế mạnh của những tỉnh vùng duyên hải mà ít chú tâm vào những tỉnh thuộc cao nguyên thì trong những năm gần đây, những tour du lịch như “Đường Hồ Chí Minh huyền thoại” và “Con đường xanh Tây Nguyên” đã lần lượt được hình thành bên cạnh “Con đường di sản thế giới miền Trung” nhằm khai thác hết tiềm năng và “vẻ đẹp tiềm ẩn” của các vùng, biến khu vực miền Trung thực sự trở thành vùng du lịch trọng điểm của quốc gia.
Tuy mang ba tên gọi khác nhau (“Đường mòn Hồ Chí Minh”, “Con đường xanh Tây Nguyên” và “Con đường di sản thế giới miền Trung”), nhưng thực ra khi liên kết ba sản phẩm du lịch này với nhau thì nó lại nằm trong tổng thể của sản phẩm “Con đường di sản thế giới ở miền Trung”, đặc biệt là từ khi Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên được công nhận là Di sản văn hoá phi vật thể của thế giới. Và như vậy là những sản phẩm du lịch này khi kết hợp với nhau đã biến thành một chỉnh thể thống nhất: Con đường của những di sản văn hoá thế giới.
Việc kết nối thêm Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên vào danh sách những di sản thế giới trong sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới miền Trung làm cho ngành du lịch ở khu vực này ngày càng đặc sắc và đa dạng. Như vậy, trong cùng một tour du lịch của mình du khách có thể trải nghiệm nhiều vùng văn hoá khác nhau trên dải đất miền Trung. Điều này sẽ tạo nên một lực hút mới khiến du khách mê say không chỉ trong hiện tại mà cả trong tương lai.
Sự đóng góp rất lớn của các di sản văn hoá và các sản phẩm du lịch gắn liền với tên tuổi của những di sản văn hóa này đã làm cho ngành du lịch miền Trung có được một diện mạo mới và ngày càng khởi sắc.
CHƯƠNG 3
VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ BẢO TỒN, PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA CON ĐƯỜNG DI SẢN THẾ GIỚI Ở MIỀN TRUNG
3.1. Sự liên kết văn hóa trong du lịch của Con đường di sản thế giới ở miền Trung
"Con đường di sản văn hoá miền Trung" gồm nhiều giá trị di sản văn hoá của nhân loại và không gian của con đường ấy trải dài trên ba vùng văn hoá khác nhau: văn hóa Huế, văn hóa Quảng Nam, văn hóa Tây Nguyên Đây chính là điểm độc đáo nhất về phương diện văn hoá mà sản phẩm du lịch có thể mang lại cho miền Trung.
¬ Vùng văn hoá Huế: Đây là một không gian văn hoá rất đặc sắc trên "Con đường di sản văn hoá miền Trung". Tính đặc sắc của văn hoá Huế được thể hiện bởi sự kết hợp tinh tế và hài hoà của hai bộ phận văn hoá dân gian và văn hoá cung đình. Nhưng nếu xét từ tổng thể, thì có thể xem đó là một vùng văn hoá mang đậm dấu ấn cung đình bác học.
Văn hoá dân gian của Huế như hò giã gạo, hò đưa linh, những lễ hội dân gian vv…được lưu giữ và phát huy trong đời sống dân gian. Tuy có phần tách bạch với văn hoá cung đình mang tính bác học, nhưng sự phân biệt cũng không phải là lớn lắm.
Theo chiều ngược lại, văn hoá cung đình cũng có sự thâm nhập đáng kể vào đời sống văn hoá dân gian. Sự chuyển tải này được thể hiện qua trung gian là những nhà khoa bảng, những quan lại hưu trí v.v… Sau thời gian phục vụ triều đình, họ trở về quy ẩn điền viên và mang theo sinh hoạt văn hoá cung đình vào đời sống dân gian.
Tuy có sự pha trộn, kết hợp hài hoà giữa hai bộ phận văn hoá dân gian và văn hoá cung đình như vậy nhưng khi nói đến đặc trưng của văn hoá Huế thì yếu tố văn hoá cung đình vẫn mang tính đại diện phổ quát. Yếu tố văn hoá cung đình Huế vẫn còn tồn tại qua những quần thể di tích, đền đài, lăng tẩm, qua hình thức âm nhạc mang tính bác học như nhã nhạc cung đình, qua nếp sống thanh lịch, nặng phần khách sáo vv…
¬ Vùng văn hóa Quảng Nam: Đây chính là vùng đất nằm trong địa thế giằng co về mặt lãnh thổ trong một thời gian dài giữa Đại Việt và Champa. Kết. Nếu như văn hoá Huế là loại văn hoá cung đình thì văn hoá Quảng Nam mang tính dân gian nhiều hơn. Hai điểm nhấn đặc biệt của văn hoá Quảng Nam chính là phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Nếu như Mỹ Sơn mang trong mình sự trầm mặc và bí ẩn của nền văn hoá Champa thì Hội An chính là cánh cửa mở toang ra thế giới bên ngoài. Nhờ sự mở cửa thông thoáng đó của các chúa Nguyễn nên những kiều dân Nhật Bản và Trung Quốc đã chọn Hội An làm quê hương thứ hai của mình. Chính việc hình thành những cộng đồng đó đã tạo ra những nét đặc sắc của Hội An trong suốt chiều dài lịch sử của phố Cảng. Thời điểm hưng thịnh nhất của phố cổ không chỉ có cộng đồng người Nhật và người Hoa sinh sống, buôn bán mà còn có các sắc dân từ đủ mọi quốc gia như Ý, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha vv… sau đó đã đến đây để mua bán và truyền giáo. Trong một môi trường mang tính quốc tế như vậy, quá trình giao lưu văn hoá đã được hình thành và phát triển, làm cho sắc thái văn hoá của Hội An ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.
¬ Vùng văn hóa Tây Nguyên: Đây là một vùng văn hoá mà các tộc người bản địa đóng vai trò chủ đạo. Sự phân bố các tộc người thiểu số trên vùng đất này thật đa dạng và phong phú. Với sự nhập cư liên tục của người Việt và một bộ phận các tộc người bản địa từ nhiều địa phương trên cả nước, đặc biệt là từ miền núi phía Bắc, thành phần tộc người trong dân số Tây Nguyên đã tăng nhanh từ 37 tộc người vào năm 1989 lên 47 tộc người vào năm 1999 (theo thống kê của Viện Dân tộc học). Các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên có truyền thống văn hoá rất phong phú và đa dạng. Nền văn hoá ở đây có cội nguồn rất xa xưa: Cách đây hơn một nghìn năm, tổ tiên của người Tây Nguyên đã chế tác ra được những bộ đàn đá độc đáo…, chứng tỏ nền văn hoá của họ đã phát triển đến một trình độ nhất định.
Các tộc người Tây Nguyên cũng làm cho văn hoá của mình trở nên độc đáo và đặc sắc bởi những lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá Tây Nguyên. Những nghi lễ biểu thị niềm tin và hi vọng, những bản trường ca, những sử thi… cũng đã tạo cho vùng này một sắc thái văn hoá độc đáo.
Tây Nguyên là vùng đất nhiều lễ hội với các bản dân ca mang đậm sắc thái tộc người. Ngoài những bài ca, hội hè, cồng chiêng vv…, văn hoá Tây Nguyên còn một đặc trưng rất thú vị không thể không nhắc đến đó là hệ thống luật tục quy định và chi phối hành vi ứng xử trong từng tộc người. Thậm chí có nơi luật tục còn thay thế hẳn pháp luật quốc gia trong những phương thức xử thế, xét xử tội phạm và ổn định xã hội của cộng đồng.
Tóm lại, Tây Nguyên là một vùng văn hoá đa tộc người, có những sắc thái văn hoá riêng biệt và độc đáo. Vùng văn hóa này, với đặc trưng mang đậm tính chất văn hoá các tộc người bản địa, đã tạo ra cho không gian văn hóa Tây Nguyên một sắc thái đặc biệt trên con đường di sản miền Trung.
Ba vùng văn hoá với nhiều sắc thái đặc thù liên kết với nhau trên phương diện văn hoá để trở thành một tour du lịch hoàn chỉnh và hấp dẫn là điều hoàn toàn có thể thực hiện được.
Tuy cùng nằm trong một tour du lịch, nhưng rõ ràng ba vùng văn hoá Huế - Quảng Nam – Tây Nguyên hình thành một bức tranh văn hoá với nhiều sắc thái khác nhau. Đứng trên phương diện lí luận về văn hoá mà xét thì sự khác nhau giữa các vùng văn hoá không hề tạo nên sự mâu thuẫn mà trái lại nó tạo nên sự gắn kết và hấp dẫn đối với du khách. Những điều đó là tác nhân kích thích óc tưởng tượng và thúc đẩy du khách tìm hiểu tour du lịch nhằm thoả mãn cảm giác muốn được trải nghiệm về phương diện văn hoá.
Việc liên kết hoạt động du lịch giữa 3 vùng văn hoá là khả thi, nhưng cũng không tránh khỏi một số khó khăn nhất định. Ví dụ như du khách khó có thể tránh được cảm giác bỡ ngỡ thuở ban đầu khi có sự thay đổi quá đột ngột về sinh cảnh cũng như môi trường văn hoá giữa miền Trung và Tây Nguyên, sự khác biệt về những vùng khí hậu và những vùng văn hoá khác nhau trên cùng một đất nước. Tuy nhiên, trong sự liên kết này, yếu tố thuận lợi vẫn áp đảo. Du lịch chính là văn hoá được thể hiện trong đời sống, cho nên việc liên kết giữa 3 vùng văn hoá vừa mang tính chất cung đình bác học, vừa mang nặng màu sắc Champa cổ, lại được tô điểm thêm bởi những sắc màu thế giới Mã lai - Đa đảo đầy huyền bí của khu vực Đông Nam Á ở Tây Nguyên chắc chắn sẽ là một sự liên kết khả thi đầy hấp dẫn.
3.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu du lịch Con đường di sản thế giới ở miền Trung
Xét từ góc độ văn hoá cho đến tính khả thi của hiệu quả kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại thì con đường di sản miền Trung có tính khả thi rất cao.
Ý tưởng về tour du lịch "Con đường di sản miền Trung" được khởi xướng đầu tiên bởi ông Paul Stoll - nguyên tổng giám đốc Furama Resort. Thoạt đầu "Con đường di sản miền Trung" chỉ bắt đầu ở Thừa Thiên-Huế, vào tới Đà Nẵng và dừng lại ở Quảng Nam. Xét về mặt lí luận thì những thuận lợi và tính khả thi của tour du lịch "Con đường di sản miền Trung" là không có gì phải nghi ngờ, nhưng trên thực tế thì vấn đề lại không hẳn là như vậy. Làm sao để tìm được tiếng nói chung giữa các di sản (địa phương) là một điều thực sự khó khăn. Có lẽ vấn đề điều hành chung còn nhiều lúng túng nên hoạt động của sản phẩm du lịch này chưa mang lại hiệu qủa như mong muốn.
Xuất phát từ một đất nước có nền văn hoá nông nghiệp nên những mặt mạnh và những mặt yếu đã đi theo doanh nhân Việt Nam ngay cả trong thời buổi hội nhập kinh tế. Không ai có thể phủ nhận là văn hoá nông thôn Việt Nam có tính cộng đồng và tính tự trị rất cao. Nhưng rất tiếc, trong trường hợp này, những mặt tích cực của những đặc tính trên không được tận dụng trong khi những mặt tiêu cực như quan liêu, ganh ghét, cục bộ địa phương và che đậy thông tin thì lại phát huy.
Hơn nữa, về phương diện quản lí, gần như miền Trung chưa theo kịp sự phát triển có tính bùng nổ của ngành du lịch. Việc hoạt động manh mún, mang đầy tính cạnh tranh “thiếu lành mạnh” giữa các địa phương trong cùng một sản phẩm du lịch trong một thời gian dài đã mang lại rất nhiều bất lợi cho tour Con đường di sản thế giới miền Trung. Có thể nói, tuy chia sẻ cùng một lợi ích, nhưng những địa phương (có di sản thế giới) này dường như chưa tìm được tiếng nói, hoạt động chung. Một trong những hoạt động mang tính quyết định thành bại của hoạt động du lịch là quảng bá và xúc tiến thương hiệu. Tuy vậy, trong những năm trước đây, giữa các địa phương gần như thiếu vắng hoàn toàn việc quảng bá du lịch cho nhau.
Thời gian gần đây, do nhận thấy những tồn tại tiêu cực trong việc triển khai và điều hành tour du lịch Con đường di sản thế giới tại miền Trung, nên lãnh đạo các tỉnh và các doanh nghiệp đã bắt đầu ngồi lại với nhau vì lợi ích chung. Thay vì câu quảng bá “Hãy đến với địa phương chúng tôi!” thì những người làm công tác du lịch đã nói: “Hãy đến với con đường di sản của chúng tôi!” . “Chúng tôi có những khu nghỉ dưỡng ven núi , chúng tôi có những bãi biển, những di sản văn hóa nổi tiếng thế giới…” .
Tình hình chủ nghĩa cục bộ địa phương trong hoạt động du lịch đã bắt đầu có dấu hiệu chấm dứt. Người ta đã thấy các quan chức ngành du lịch các tỉnh, thành có Con đường di sản thế giới miền Trung đi qua ngồi lại với nhau để thảo luận và bàn bạc. Đây thật sự là một tín hiệu rất đáng mừng cho sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới miền Trung, và cho cả ngành du lịch của các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Tuy nhiên, để sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới ở miền Trung đi vào vận hành suôn sẻ và tránh được những sai lầm đáng tiếc như nó đã từng gặp phải trong quá khứ, xuất phát từ thực tiễn hoạt động tự phát, có tính địa phương, kém hiệu quả trước đây trong việc khai thác sản phẩm du lịch "Con đường di sản thế giới miền Trung", thiết nghĩ, Tổng cục Du lịch nên lập ra một Uỷ ban chỉ đạo, giám sát hoạt động của sản phẩm du lịch này, đặc biệt là khi giờ đây Con đường di sản đã được mở rộng tới các tỉnh Tây Nguyên, việc liên kết hoạt động sẽ còn khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều.
Vì đối tượng du khách chủ yếu của sản phẩm du lịch là du khách nước ngoài nên việc xúc tiến và quảng bá du lịch là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, việc tìm kiếm sự hợp tác của các tham tán văn hoá của Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới là vô cùng có ý nghĩa.
Để cho sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới ở miền Trung đi vào hiện thực và mang lại nhiều chuyển biến tốt cho kinh tế, văn hoá ở miền Trung và Tây Nguyên, các địa phương và các doanh nghiệp du lịch cần phải đặt mình dưới sự giám sát của Uỷ ban chỉ đạo và điều phối. Khi đã ngồi với nhau để cùng làm việc, dưới một sự chỉ đạo nhất quán, với những quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng thì hi vọng là Con đường di sản văn hoá thế giới ở miền Trung sẽ vận hành được trong thực tế chứ không còn là một vấn đề thuần tuý lý thuyết nữa.
Cuối cùng, điểm tựa quan trọng nhất của sản phẩm "Con đường di sản thế giới miền Trung" vẫn là những di sản văn hoá mang tính nhân loại tồn tại ở địa phương. Nên có kế hoạch bảo tồn và giữ gìn nghiêm túc những tài sản vô giá này để có thể khai thác lâu dài, tránh tình trạng quá chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế mà lãng quên văn hoá. Nếu không làm đựơc điều đó thì một ngày không xa chúng ta sẽ phải trả giá thật đắt.
3.3. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
3.3.1. Định hướng bảo tồn di sản văn hoá
Một vấn đề tế nhị và rất phức tạp đã nảy sinh khi bàn về di sản văn hoá, bởi lẽ di sản văn hoá luôn bao gồm cả di sản văn hoá vật thể lẫn di sản văn hoá phi vật thể. Như vậy, di sản văn hoá không chỉ đơn thuần là những hiện vật thuộc về quá khứ, thuộc về lịch sử mà thực ra di sản văn hoá còn gắn liền với đời sống hiện tại và nối liền với tương lai. Bảo tồn di sản văn hoá là một việc đáng làm nhưng bảo tồn các di sản văn hoá sao cho hiệu quả là một vấn đề hoàn toàn toàn không đơn giản. Tại Việt Nam, ở các địa phương có di sản văn hoá đều đưa ra khẩu hiệu và quyết tâm bảo tồn di sản văn hoá, nhưng bảo tồn tới đâu và bảo tồn như thế nào cho hiệu quả thì lại đang là một vấn đề gây ra nhiều tranh cãi và lúng túng.
Dự án khôi phục, trùng tu và bảo tồn khu phố cổ ở Hội An là một trong những thành công điển hình của việc bảo tồn di sản văn hoá vật thể.
Ở Huế, giữa hai di sản: một di sản văn hoá vật thể và một di sản văn hoá phi vật thể đang được bảo tồn, ta có thể thấy được chỉ có di sản văn hoá phi vật thể (nhã nhạc cung đình Huế) là được bảo tồn tương đối thành công.
Kết quả của việc bảo tồn di tích cố đô Huế không mấy khả quan, một phần là do không có được hoặc là hiếm khi có được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu, phê bình và những người có trách nhiệm bảo tồn trực tiếp. Bên bảo tồn cứ thực hành không theo một phương pháp nào đã đành, trong khi đó bên nghiên cứu thì cũng cứ hồn nhiên phê bình vì thấy không vừa ý. Nhưng khi cần đưa ra những kiến nghị cụ thể cho công tác bảo tồn thì các nhà nghiên cứu lại rơi vào tình cảnh bế tắc.
Làm sao để bảo tồn Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên cũng đang là vấn đề gây ra nhiều tranh luận cho các nhà nghiên cứu và đối với nhiều người, dường như đây là một công việc không thể thực hiện. Khác với những nhạc cụ thông thường khác, cồng chiêng chở trên thanh âm của nó cả không gian văn hóa Tây Nguyên, vì vậy nó cần được bảo tồn, phát huy một cách xứng đáng ngay tại nơi nó đã sinh ra. Nhưng có một thực tế đáng buồn là hiện nay văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang đứng trước nguy cơ của sự mai một: mai một về số lượng cồng chiêng, về các bài bản nhạc cồng chiêng, số lượng người biết đánh cồng chiêng, chỉnh chiêng…Lớp trẻ ở Tây Nguyên thì ngày càng thờ ơ với cồng chiêng và chỉ thích nghe nhạc trẻ, Rock Rap và Hip Hop.Có thể nói “sự đứt gãy dòng chảy của văn hóa truyền thống” cùng với sức hút mạnh mẽ của nhịp sống hiện đại đã dẫn đến “sự thờ ơ, hờ hững của lớp trẻ với văn hóa của các thế hệ tiền nhân” .
Hơn lúc nào hết, toàn thể nhân loại đang tôn vinh những giá trị về văn hóa, vì thế việc bảo tồn các di sản văn hóa thế giới ngày càng trở nên cấp thiết. Công việc bảo tồn của ngày hôm nay, của con người thời đại này đối với những di sản văn hoá là một công việc đáng trân trọng. Để bảo tồn bất kỳ một di sản văn hóa thế giới nào, những người làm công tác bảo tồn có thể tham khảo các bước đề nghị sau:
Bước một: Nhà nước cần sớm ban hành Luật bảo vệ di sản văn hoá thế giới. Đây là vấn đề tạo điều kiện mở ra một hành lang pháp lý hữu hiệu và thông thoáng cho những người làm công tác bảo tồn để họ biết được rằng pháp luật quốc gia có di sản văn hoá thế giới đang bảo vệ họ và công việc của họ làm có ý nghĩa nhân văn rất cao. Hơn thế nữa, những điều khoản trong luật bảo vệ di sản văn hóa thế giới phải quy định những biện pháp pháp lý mạnh mẽ để chống lại những người có hành vi xâm phạm và phá hoại di sản văn hoá của nhân loại.
Bước hai: Chính quyền trung ương và địa phương cần có sự quan tâm đúng mức và đầy đủ đến công tác bảo tồn. Điều này chính là cơ sở đảm bảo chắc chắn cho việc bảo vệ vật chất ở một khu di sản bằng các biện pháp khác nhau.
Bước ba: Cần phải có một hệ thống quản lý và bảo vệ di sản thật tốt. Việc tồn tại hay tiêu vong của một di sản văn hoá có sự phụ thuộc rất quan trọng vào hệ thống quản lí của chính quyền sở tại.
Cuối cùng: Những nhà khoa học và những nghệ nhân am hiểu văn hoá cần phải được tạo điều kiện tốt nhất trên mọi phương diện để họ yên tâm thực hiện công việc đặc thù của mình, cũng cần phải lưu tâm là việc bảo vệ một di sản văn hoá phụ thuộc rất nhiều vào sự giúp đỡ và cộng tác của nhân dân địa phương. Nên tạo mọi điều kiện để khai thác sự nhiệt tình của họ một cách tốt nhất, hãy nói cho họ biết những nguồn lợi mà họ sẽ được thụ hưởng khi các di sản văn hoá thế giới nơi địa phương của họ được bảo vệ tốt.
3.3.2. Phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
Phần này đi vào phân tích mối quan hệ giữa phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa thông qua thực tiễn khai thác các giá trị di sản văn hóa thế giới của Con đường DSTG miền Trung. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa là mối quan hệ qua lại thể hiện ở ba dạng thức sau:
- Quan hệ cùng tồn tại: có rất ít mối quan hệ giữa hoạt động du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa.
- Quan hệ cộng sinh: du lịch và văn hóa có sự hỗ trợ lẫn nhau và đều nhận được lợi ích từ mối quan hệ này.
- Quan hệ mâu thuẫn: khi du lịch làm tổn hại đến nỗ lực bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa.
Nhìn vào thực tế khai thác các giá trị văn hóa của Con đường di sản thế giới ở miền Trung trong du lịch chúng ta có thể thấy mối quan hệ cộng sinh và quan hệ mâu thuẫn giữa văn hóa và du lịch thể hiện hết sức sâu sắc. Du lịch đã mang đến cho miền Trung cơ hội phát triển kinh tế và văn hoá nhưng đồng thời nó cũng mang lại nhiều thách thức nguy hiểm.
Xét về mặt tốt đẹp của vấn đề, du lịch đã khiến cho nhiều địa phương thoát cảnh đói nghèo và thất nghiệp. Trước thời mở cửa, nhìn chung tình hình kinh tế ở các địa phương miền Trung. Khi nước nhà mở cửa, kinh tế phát triển trông thấy và rõ ràng là ngành du lịch đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển này.
Việc du khách đến tham quan các địa phương có di sản đã tạo ra những ảnh hưởng nhất định trên các phương diện của đời sống cư dân địa phương như kinh tế, văn hoá - xã hội và cảnh quan môi trường là một thực tế khó phủ nhận. Ví dụ điển hình nhất là trường hợp của Huế. Qua những kì Festival, người dân cùng với ngành du lịch và văn hoá Thừa Thiên - Huế đã giới thiệu tương đối thành công hai di sản văn hoá của mình đến với toàn thể du khách. Festival 2008 năm nay, người Huế đã đưa ra khẩu hiệu "Festival là cơ hội để phát huy và quảng bá di sản văn hoá Huế". Nhưng làm du lịch mà không tàn phá môi sinh, không làm hư hỏng di sản văn hoá đã là khó. Làm du lịch để vừa bảo tồn vừa phát huy được di sản văn hoá mà vẫn đảm bảo mục tiêu kinh tế thì lại càng khó hơn.
Ngoài những du khách có văn hoá cao, cư xử đúng mực đối với các di sản văn hoá, vẫn còn không thiếu những du khách với nhận thức còn yếu kém, đã có những hành động thiếu tôn trọng với những vùng đất mà họ đặt chân đến. Những việc làm không mong đợi từ phía du khách thường thể hiện qua rất nhiều hành vi. Ví dụ như việc chụp hình bất kỳ một người địa phương nào mà không hề xin phép họ, điều này đôi khi cũng phát sinh ra nhiều thực tế phiền toái. Những hành vi biểu hiện sự thân mật quá mức giữa các du khách phương Tây ở những nơi công cộng cũng gây ra không ít điều khó chịu cho dân địa phương.
Những phiền toái và ảnh hưởng tiêu cực do một bộ phận du khách gây ra không chỉ dừng lại ở đó. Đôi khi, có những du khách còn có thái độ và hành vi nhằm mục đích làm tầm thường hoá ý nghĩa nhân văn của khu di sản. Điều này thường được thể hiện qua việc ăn mặc quá "mát mẻ" khi đến những thánh tích tôn giáo thiêng liêng mà người dân địa phương sùng kính. Việc làm này dù cố ý hay không cũng dễ làm thương tổn tâm lý của cư dân địa phương. Cũng có một số bộ phận du khách thường xuyên lấy cắp những di vật ở các di tích văn hoá, thậm chí có những du khách còn cố ý phá hoại những di tích này.
Số lượng du khách đến tham quan các di tích quá đông cũng luôn là những nguy cơ đe dọa sự xuống cấp nhanh chóng và nghiêm trọng của các di sản văn hóa.
Đứng trước những vấn nạn không mong muốn do hoạt động khai thác các di sản văn hóa trong du lịch mang lại, người làm công tác du lịch phải có trách nhiệm gì và biện pháp gì để bảo tồn và phát huy di sản văn hoá thông qua hoạt động kinh doanh của mình?
Nỗ lực của ngành du lịch nước ta nói chung và du lịch của các tỉnh miền Trung nói riêng là làm sao cho du lịch và văn hóa luôn nằm trong quan hệ cộng sinh và phải luôn giữ vững sự hài hòa giữa hai lĩnh vực này. Muốn vậy, ngành văn hóa và ngành du lịch cần có những giải pháp của riêng mình, đồng thời cũng cần có những giải pháp là kết quả hợp tác giữa hai ngành.
Đối với ngành văn hóa, trước tiên phải nhận thức rõ và tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ vai trò to lớn của văn hóa (cả di sản văn hóa lẫn các giá trị văn hóa đương đại) đối với sự phát triển đất nước nói chung, đối với sự phát triển kinh tế, phát triển du lịch nói riêng.
Khi trùng tu, phục chế, tôn tạo các di tích văn hóa - lịch sử cần có kiến thức khoa học, quan điểm lịch sử, tránh tình trạng muốn bảo tồn nhưng lại thành phá hủy di tích, làm sai lệch giá trị văn hóa của di sản.
Ngành văn hóa cần giúp ngành du lịch bằng cách tổ chức tốt các lễ hội, các chương trình văn nghệ (chú ý các loại hình nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, của địa phương) phục vụ du khách, làm cho các di tích, các giá trị văn hóa trở thành lực hấp dẫn du khách, trở thành điểm đến thân thiện, thoải mái; phối hợp với các cấp chính quyền giáo dục văn hóa ứng xử, văn hóa du lịch cho cư dân địa phương.
Ngành văn hóa cũng cần giúp ngành du lịch trong công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch bằng các phương tiện truyền thông đại chúng hùng mạnh của mình., phối hợp tốt với ngành du lịch trong việc tổ chức các sự kiện, các lễ hội du lịch lớn.
Ngành văn hóa cần giúp cho cán bộ nhân viên của mình nhận thức rõ rằng nhờ du lịch mà ngành có thể thực hiện tốt chức năng giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân của văn hóa, làm cho di sản văn hóa không “nằm im trong tủ kính”, trong bảo tàng, trong các di tích rêu phong mà trở nên sống động trong đời sống đương đại. Đó là cách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa có hiệu quả cao.
Về phía ngành du lịch, trước tiên cần giáo dục cán bộ nhân viên nhận thức rõ vai trò, vị trí của văn hóa với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát triển du lịch nói riêng.
Du lịch không chỉ là một hoạt động kinh tế mà còn là một hoạt động văn hóa. Cần khai thác hợp lý và có hiệu quả tài nguyên du lịch nhân văn, biến các di sản, các giá trị văn hóa thành các sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Ngành du lịch cần trích một phần lợi nhuận của mình góp vào quỹ bảo tồn, tôn tạo các di tích, các giá trị văn hóa đang còn ít ỏi. Làm như vậy cũng là tự giúp du lịch phát triển bền vững.
Ngành du lịch cần thường xuyên, giáo dục, trang bị văn hóa du lịch cho mọi người tham gia hoạt động du lịch, nhất là cho đội ngũ hướng dẫn viên. Đối với hướng dẫn viên, cần cung cấp cho họ kiến thức cụ thể về văn hóa dân tộc, văn hóa thế giới, nội dung và ý nghĩa của các giá trị văn hóa ở tuyến điểm du lịch, nơi du khách tới tham quan. Trên một ý nghĩa nhất định, hướng dẫn viên cũng là nhà ngoại giao, là đại sứ văn hóa của dân tộc. Hướng dẫn viên cần phải làm cho du khách cảm thấy thích thú và thực sự thoả mãn khi tham gia vào tour du lịch. Quy luật phục vụ du khách cũng không nằm ngoài khái niệm cung - cầu. Du khách bỏ tiền ra để đi du lịch, khi được đáp trả bằng sự ân cần và nồng nhiệt, được mở rộng tầm nhìn và kiến thức văn hoá thì chắc chắn là họ sẽ hài lòng.
Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp du lịch cũng cần tuyên truyền ý thức, trách nhiệm bảo vệ văn hoá và môi trường cho du khách thông qua chính đội ngũ hướng dẫn viên du lịch.
Nhiệm vụ của người hướng dẫn viên du lịch trong vai trò bảo vệ và phát huy di sản văn hoá là hết sức quan trọng. Bởi vì, hướng dẫn viên du lịch là những người gần gũi nhất với du khách, họ chính là chiếc cầu nối cảm thông giữa du khách với một môi trường văn hoá xa lạ. Chính họ sẽ cung cấp những thông tin, những luật lệ về bảo tồn di sản văn hoá đối với du khách, giải đáp cho du khách nhiều điều thắc mắc. Những động thái có trách nhiệm như vậy của những người làm công tác du lịch sẽ khiến cho du khách ý thức hơn về những hành vi của mình đối với môi trường xã hội và môi trường văn hoá mà du khách tham quan.
Vấn đề cuối cùng trong việc khai thác và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa là chúng ta phải bán những sản phẩm du lịch thật sự chất lượng, hạn chế bớt tình trạng "nói một đằng làm một nẻo". Nếu làm được những điều cơ bản đó thì chắc chắn ngành du lịch của Việt Nam sẽ ngày càng phát triển hơn, các quốc gia trên thế giới sẽ biết đến những di sản văn hoá của nhân loại ở Việt Nam nhiều hơn. Chúng ta phải cố gắng và nỗ lực để khi du khách nghĩ về Đông Nam Á, họ không chỉ nghĩ về Angkor Wat và Angkor Thom mà còn phải nghĩ về Huế, Quảng Nam và Tây Nguyên như là những nơi cần phải đến để vừa tham quan du lịch, vừa học hỏi và giao lưu văn hoá.
*
* *
Sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới tại miền Trung được khởi đầu như một ý tưởng du lịch táo bạo và mới mẻ. Sản phẩm du lịch này dựa trên sự đặc sắc của các vùng văn hoá và nhấn mạnh vào tính liên kết giữa những vùng văn hóa ấy với nhau.
Ngày nay, các hoạt động du lịch phát triển dưới nhiều hình thức và đáp ứng nhu cầu cho nhiều đối tượng khác nhau, cả trong nước cũng như trên thế giới. Miền Trung cũng xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, mà tiêu điểm là dựa vào những giá trị văn hóa có sẵn trên con đường di sản thế giới. Con đường di sản này có thể xem là sự kết tinh về tính đa dạng của những vùng văn hóa khác nhau trên dải đất miền Trung và Tây Nguyên.
Du khách đến với con đường di sản thế giới tại miền Trung là để du lịch thưởng ngoạn và tìm hiểu về những yếu tố tương đồng và dị biệt trên những miền đất khác nhau. Du khách sẽ có cơ hội khám phá, tìm hiểu những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trên dải đất miền Trung - Tây Nguyên. Nét bí ẩn và quyến rũ của từng vùng đất trên con đường di sản thế giới tại miền Trung chính là tài sản văn hóa mà mỗi vùng đất sở hữu. Du khách sẽ thấy bồi hồi xúc động và dâng lên cảm giác hoài cổ khi đắm mình vào không gian văn hoá kinh kỳ của xứ Huế. Du khách sẽ cảm thấy như mình lạc bước chân trở về thời quá khứ hàng trăm năm khi đến phố cổ Hội An những đêm rằm và khám phá thánh địa Mỹ Sơn vào những buổi hoàng hôn. Du khách sẽ khó quên được cảm giác choáng ngợp khi đứng trước một Tây Nguyên hùng vĩ và rộn ràng, hùng tráng những âm điệu cồng chiêng.
Thật đáng tiếc, với những tiềm năng văn hóa độc đáo của mình, đáng lẽ ra sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới tại miền Trung đã được vận hành trong thực tế từ lâu nhưng do cách thức khai thác những lợi thế văn hoá có sẵn còn nhiều bất cập, do sự thiếu chuyên nghiệp trong khâu phục vụ, do sự manh mún của việc tổ chức và liên lạc giữa các địa phương với nhau trong quá trình diễn ra các sự kiện và lễ hội mà việc khai thác sản phẩm du lịch này đã chưa mang lại hiệu quả như mong muốn ban đầu.
Như vậy, muốn du lịch tại miền Trung phát triển, muốn đưa sản phẩm du lịch Con đường di sản thế giới miền Trung vào thực tế một cách hiệu quả thì chính quyền địa phương cùng những người làm công tác văn hóa và du lịch tại vùng đất này cần phải có sự đồng thuận và thống nhất với nhau trên nhiều phương diện. Đặc biệt, cần nhận thức rõ mối quan hệ giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, từ đó có những giải pháp phù hợp, những chính sách và hành động thực tế, khôn ngoan hơn nhằm bảo vệ và phát huy tối đa giá trị của những di sản văn hoá vì xét cho cùng di sản văn hoá chính là động lực căn bản để thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch.
KẾT LUẬN
Con đường di sản thế giới ở miền Trung Việt Nam nằm trên một vùng đất có bề dày lịch sử - văn hoá. Khai thác được những nét độc đáo và tiềm năng văn hoá dồi dào ấy thông qua hoạt động du lịch để phát triển kinh tế chính là một trong những vấn đề quan trọng của du lịch miền Trung trong hiện tại và tương lai.
1. Một hệ thống di sản văn hoá thế giới khá dày đặc (6 trong tổng số 7 di sản của cả nước) trải dài trên mảnh đất miền Trung với những giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc và đa dạng: sự kết hợp hài hoà giữa văn hoá dân gian và văn hoá cung đình của cố đô Huế, nhã nhạc cung đình Huế; những giá trị văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật trong kiệt tác về điêu khắc và kiến trúc của thánh địa Mỹ Sơn; một không gian văn hoá cồng chiêng còn mang đầy chất nguyên sơ với nét đặc thù của một Tây Nguyên hùng vĩ, đa dạng tộc người và một phố cổ Hội An - nơi đan xen của nhiều nền văn hoá, một “điển hình về cảng thị châu Á truyền thống” …
Hệ thống di sản văn hoá nói trên thể hiện những nét đặc trưng cơ bản của vùng văn hoá duyên hải Trung Bộ và văn hoá Tây Nguyên. Đây không chỉ là những biểu hiện sinh động của một nền văn hoá truyền thống Việt Nam phong phú, đa dạng với những giá trị đặc sắc mà còn là một thế mạnh để phát triển du lịch, một con đường để giới thiệu đất nước, con người và văn hoá Việt Nam với bạn bè trên thế giới - một đòi hỏi tất yếu của xu thế hội nhập ngày nay.
2. Mối quan hệ giữa di sản văn hoá và du lịch là mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, cộng sinh: di sản văn hoá là điều kiện quan trọng để phát triển du lịch và ngược lại, du lịch góp phần bảo tồn di sản, phát huy những giá trị văn hoá - lịch sử của di sản. Mối quan hệ hữu cơ: di sản văn hoá - du lịch nói trên đặt ra tính cấp thiết của việc giải quyết bài toán giữa khai thác với bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hoá. Giữ vững sự hài hòa giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, sự hài hòa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hóa là đảm bảo vững chắc cho sự phát triển bền vững của cả hai lĩnh vực này.
Thực tiễn phát triển du lịch miền Trung thời gian qua cho thấy còn nhiều bất cập trong việc xử lí mối quan hệ nói trên. Và hậu quả của nó là việc chúng ta chưa biết phát huy hết lợi thế di sản văn hoá quý giá của mình, chưa biết cách khai thác “kho vàng”di sản mà cha ông để lại để phát triển du lịch, để góp phần “xoá đói, giảm nghèo” trên mảnh đất miền Trung - Tây Nguyên còn nghèo nàn, lạc hậu. Mặt khác, việc khai thác (và cả cách thức bảo tồn) còn nhiều bất hợp lí đối với di sản văn hoá như hiện nay sẽ dẫn tới tình trạng di sản bị xâm hại và mai một dần giá trị. Và như vậy, du lịch cũng sẽ không thực hiện được một cách đầy đủ “chức năng” giới thiệu đất nước, con người và văn hoá Việt Nam với bạn bè quốc tế.
3. Một trong những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, thậm chí yếu kém trong phát triển du lịch miền Trung là sự thiếu vắng của một kế hoạch phát triển tổng thể có tính chiến lược với sự phối hợp của các ban, ngành từ trung ương đến địa phương. Chính vì vậy, việc hoạch định chiến lược phát triển du lịch miền Trung thật sự là vấn đề cấp bách. Trong kế hoạch đó, chúng tôi cho rằng việc hình thành liên kết chặt chẽ giữa những nét văn hoá đặc thù của mỗi di sản trong mối tương quan hệ thống là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Lữ khách viếng thăm một di sản nào đó của mảnh đất miền Trung cũng có nghĩa là họ đã bắt đầu đặt chân lên “con đường di sản thế giới” chứ không chỉ là một điểm du lịch đơn lẻ.
Phát hiện những giá trị văn hoá của di sản (dưới góc độ văn hoá du lịch), chỉ ra được mối quan hệ hữu cơ giữa các giá trị đó và đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa khai thác - bảo tồn - phát huy giá trị văn hoá của di sản chính là ý tưởng của hệ thống tuyến điểm du lịch “Con đường di sản thế giới tại miền Trung Việt Nam” mà luận văn bước đầu đề cập.