VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN
VEN BIỂN BẾN TRE
MỤC LỤC
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
CHƯƠNG 1:BẾN TRE VÀ CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN, VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG
1.2. Cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre
1.3. Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng
CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC TÍN NGƯỠNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN BẾN TRE
2.1. Các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu
2.1.1 Tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ
CHƯƠNG 3: HOẠT ĐỘNG THỜ CÚNG CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯ DÂN VEN BIỂN BẾN TRE
3.3. Các hình thức sinh hoạt nghệ thuật
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ
“Văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre”
Bến Tre có chiều dài giáp biển 65 km và đã hình thành nên 2 cộng đồng ngư dân ven biển: An Thuỷ (huyện Ba Tri) và Bình Thắng (huyện Bình Đại). Hai cộng đồng này có chung quá trình lịch sử hình thành, điều kiện kinh tế-xã hội và tương đồng văn hoá. Ngư dân An Thuỷ và Bình Thắng có những đóng góp lớn trong việc đánh bắt thuỷ hải sản ven bờ, xa bờ, góp phần phát triển kinh tế cho Bến Tre vốn còn nhiều khó khăn. Riêng, cho đến nay, việc nghiên cứu cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre chưa có sự quan tâm nhiều từ các nhà khoa học. Do vậy, việc tìm hiểu về cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre mang tính khoa học và cả thực tiễn. Trong đó, việc tìm hiểu văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng này góp phần hiểu sâu hơn diện mạo văn hoá của họ và hiểu rõ hơn về thế giới quan, nhân sinh quan của những con người mà cả đời gắn mình với biển cả.
Nhìn một cách tổng thể, luận văn bao gồm 3 chương, 130 trang. Chương 1: Bến Tre và cộng đồng ngư dân ven biển, văn hóa tín ngưỡng. Chương này tập trung giới thiệu khái quát về vùng đất Bến Tre và diện mạo cộng đồng ngư dân ven biển, tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng. Chương 2: Các hình thức tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre. Chương này giới thiệu các hình thức tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân, bao gồm: Các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Quan Công và cá ông.Chương 3: Các hoạt động thờ cúng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre. Chương này giới thiệu toàn bộ các hoạt động thờ cúng của ngư dân: Cơ sở thờ tự, lễ hội, sinh hoạt nghệ thuật. Ngoài ra, còn có thêm phần phụ lục gồm 58 trang với các tư liệu và hình ảnh có liên quan.
Chương 1 bao gồm 3 phần: Giới thiệu tọa độ văn hóa Bến Tre và diện mạo cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre (địa bàn cư trú, quá trình hình thành và phát triển, hoạt động kinh tế - xã hội), tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng. Toàn bộ chương này làm tiền đề cho nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre. Qua nghiên cứu thì cho thấy rằng, Bến Tre là tỉnh nằm về phía hạ lưu của Đồng bằng sông Cửu Long, giáp với biển Đông với chiều dài 65 km. Vùng ven biển Bến Tre có trữ lượng khá nhiều tôm cá, cho nên nơi đây đã hình thành các cộng đồng ngư dân ven biển: An Thủy (huyện Ba Tri) và Bình Thắng (huyện Bình Đại). Khác với An Thủy, cộng đồng ngư dân Bình Thắng được thành muộn hơn, vào khoảng năm 1950. Cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre có quá trình thành và phát triển gắn liền với lịch sử vùng đất Bến Tre, có sự đóng góp lớn của người Hoa trong việc đánh bắt và phát triển kinh tế. Họ được xem là cộng đồng ngư dân bãi dọc, vừa đánh bắt thủy sản vừa tiến hành các hoạt động khai thác nông nghiệp khác. Cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre được phát triển từ hình thức đánh bắt trong bờ (đáy rạo, đáy sông cầu, sáo điêu, xiệp, chài…) sang ven bờ (lưới sỉ, lưới gõ, câu kiều…) và ngày nay là xa bờ (câu mực, lưới đèn, cào…). Hiện nay, cư dân 2 xã này có một đời sống kinh tế- xã hội tương đối phát triển hơn so với những nơi khác. Hoạt động đánh bắt của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre có ý nghĩa lớn cho việc phát triển kinh tế biển và giữ vững chủ quyền lãnh hải Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Mặt khác, họ có một diện mạo văn hóa độc đáo, đó là sự thích ứng với điều kiện sinh thái vùng ven biển, sự giao lưu văn hóa Việt - Hoa để hình thành nên một số dạng thức văn hóa vật thể, phi vật thể tiêu biểu. Trong đó, nổi bật hơn hết là văn hóa tín ngưỡng vốn là một bộ phận không thể thiếu được của đời sống văn hóa cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre.
Chương 2 tập trung nghiên cứu về các hình thức tín ngưỡng thuộc phạm vi cộng đồng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre. Nhìn chung, ở đây có tín ngưỡng thờ Mẫu (Bà Chúa Xứ, Bà Thủy, Bà Thiên Hậu, Thập Nhị Thánh Mẫu), tín ngưỡng thờ cá ông và tín ngưỡng thờ Quan Công. Qua các hình thức tín ngưỡng này, có thể thấy được mối quan hệ giao lưu văn hóa, gắn liền với điều kiện tự nhiên, nguồn gốc của ngư dân qua các thời kì khác nhau. Các hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu, cá ông và Quan Công giữ vai trò chính và ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống tinh thần của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre. Tín ngưỡng thờ Mẫu phản ánh quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng này. Mặt khác, nó biểu hiện giao lưu văn hoá trong quá trình chung sống của ngư dân Việt và Hoa. Tâm thức hướng về Mẫu là một hằng số chung của tâm linh Việt Nam, nhưng ở đây các vị Mẫu: Bà Chúa Xứ, Bà Thuỷ, Bà Thiên Hậu có vai trò phù hộ cộng đồng giữa nơi biển cả bao la được bình yên, độ trì cho những chuyến ra khơi với tôm cá nặng đầy khoang. Tín ngưỡng thờ cá ông phản ánh quá trình mưu sinh trên biển cả vốn còn nhiều bất trắc và là sự tiếp nối truyền thống văn hóa từ miền Trung. Riêng, tín ngưỡng thờ Quan Công phản ánh quá trình giao lưu văn hóa Việt-Hoa trong đời sống của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre.
Bên cạnh các hình thức tín ngưỡng, các hoạt động thờ cúng của cộng đồng ngư dân là nội dung của chương 3, nhằm thể hiện sự tôn vinh và ngưỡng vọng các vị thần linh, góp phần cho văn hóa tín ngưỡng cộng đồng này thêm phong phú, đa dạng. Qua khảo sát, các hoạt động thờ cúng bao gồm: Cơ sở thờ tự (miếu bà, lăng ông, chùa Thanh Minh), lễ hội (lễ hội kì yên, lễ hội nghinh ông, lễ vía Quan Công) và sinh hoạt nghệ thuật (hát bội, múa bóng). Nhìn chung, hoạt động thờ cúng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre khá phong phú và đa dạng, thể hiện lòng ngưỡng mộ và niềm tin vào thần linh nhằm cầu mong cho hoạt động đánh bắt được bình yên giữa biển cả, đời sống ngày một sung túc. Qua đó, phần nào đời sống văn hóa và lịch sử được tái hiện, nhằm để hiểu hơn về cộng đồng này. Từ các hình thức cơ sở thờ tự và lễ hội cho đến các hình thức sinh hoạt nghệ thuật như: Hát bội, múa bóng đã phản ánh cuộc sống khá sung túc của ngư dân. Ngoài ra, các hoạt động này thể hiện được đặc trưng của văn hóa tín ngưỡng ở Nam bộ.
Từ đó, có thể đề cập đến một số đặc điểm của văn hoá tín ngưỡng cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre như sau:
- Thứ nhất, văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre bắt nguồn từ sự ngưỡng vọng thần linh nhằm mục đích cầu cho bình an, giàu có, tránh đi mọi tai nạn và bất trắc khi lênh đênh trên biển cả. Từ đó đã nảy sinh và tích hợp các giá trị văn hoá có liên quan đến tín ngưỡng như: Lễ hội, hát bội, muá bóng, cơ sở thờ tự. Do đó, văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng này mang tính đa dạng, chứa đựng các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể, làm giàu thêm cho đời sống văn hoá của họ.
- Thứ hai, văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre có sự giao lưu văn hoá Việt - Hoa, do sự có mặt của người Hoa ở đây. Sự giao lưu này đã thể hiện qua tín ngưỡng thờ Quan Công, Thiên Hậu, và đặc biệt, bức tranh Thập Nhị Thánh Mẫu ở miếu bà An Thuận là một minh chứng cho điều này.Qua đó, yếu tố văn hoá Việt giữ vai trò chủ đạo, bởi vì ngư dân Việt giữ vai trò chủ thể trong cộng đồng.
- Thứ ba, văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre có sự thâm nhập khá sâu sắc của Phật giáo. Điều này thể hiện được tính dung hợp của truyền thống văn hoá Việt Nam. Sự thâm nhập của Phật giáo không chỉ dừng lại ở các nghi cúng cầu an mà còn ở quan niệm của ngư dân.
- Thứ tư, văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre mang nội dung lịch sử nhất định. Việc mang nội dung lịch sử có ý nghĩa nâng cao vai trò của thần thánh trong đời sống tinh thần của ngư dân, phản ánh được lịch sử của vùng đất Bến Tre vốn bị chiến tranh tàn phá, góp phần hiểu được tổ chức đời sống xã hội của làng xã Bến Tre xưa. Ở đây, văn hóa chính là tấm gương phản chiếu của lịch sử, xã hội.
Ngoài ra, văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre có sự giống và khác nhau so với Bà Rịa-Vũng Tàu. Sự giống nhau có nguyên nhân chính từ hoạt động nghề nghiệp chính là đánh bắt thủy sản, nên cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre và Bà Rịa -Vũng Tàu đều có các hình thức tín ngưỡng có liên quan đến nghề nghiệp, phản ánh sự may rủi, bất trắc của ngư dân khi hoạt động trên biển khơi. Các hoạt động thờ cúng của hai cộng đồng này tương đối giống nhau với các hình thức như: Miếu bà, lăng ông, lễ hội, hát bội, múa bóng,…Đây là các hoạt động thờ cúng đặc trưng của người dân Nam bộ. Ngoài ra, còn có sự giao lưu văn hóa Việt-hoa, sự thâm nhập của Phật giáo vào văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân 2 nơi này. Bên cạnh những nét tương đồng, văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre và Bà Rịa - Vũng Tàu còn có sự khác biệt. Điều này được thể hiện ở một số phương diện như: Hình thức hát bả trạo trong lễ nghinh ông, có nghĩa địa cá ông trong các lăng ông, không tổ chức ra khơi nghinh ông ở Bà Rịa-Vũng Tàu. Điều này có nguyên nhân chính do cộng đồng ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc ngư dân bãi ngang và có quá trình hình thành lâu đời hơn ngư dân Bến Tre.
Ngoài ra, việc tìm hiểu và đề ra các giải pháp trên phương diện thực tiễn góp phần cho vấn đề bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre là vấn đề cần thiết, đặc biệt ở khía cạnh du lịch nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội vùng ven biển Bến Tre. Có thể kể đến các giải pháp như sau:
1. Cần tôn trọng tự do tín ngưỡng và bài trừ mê tín dị đoan trong hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre.
2. Cần nhanh chóng triển khai thực hiện một cách đồng bộ xây dựng danh hiệu “Cơ sở Thờ tự Văn minh” cho các cơ sở tín ngưỡng ở Bình Thắng và An Thủy.
3. Cần nhấn mạnh đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre, mà văn hóa tín ngưỡng là một điển hình.
4. Trong thời gian qua, Bến Tre đã cố gắng đưa văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển vào sự quảng bá, phát triển du lịch địa phương, tiêu biểu là lễ hội nghinh ông ở Bình Thắng.
Tóm lại, văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng ngư dân ven biển Bến Tre chính là sự ngưỡng vọng, tôn kính của ngư dân với các vị thần linh. Nó được bắt nguồn từ sự bất trắc, khó khăn, may rủi của nghề đánh bắt thủy sản trên biển cả. Cũng từ đó, các loại hình tín ngưỡng như thờ Mẫu, cá ông, Quan Công đã nảy sinh và tích hợp các giá trị văn hóa khác với biểu hiện là các hoạt động thờ cúng như: Lễ hội, hát bội, múa bóng, cơ sở thờ tự…Và như vậy, văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng này mang tính phong phú và đa dạng, biểu hiện được nhiều khía cạnh của đời sống lịch sử, xã hội của vùng biển Bến Tre. Do vậy, hơn lúc nào hết cần có sự quan tâm, đầu tư đúng mức, góp phần tôn vinh các giá trị tốt đẹp để bảo tồn, giáo dục cho thế hệ trẻ. Làm được như vậy, chính là thực hiện đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày nay.