logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • VHVN: Những vấn đề chung
Thursday, 12 March 2015 08:35

Trần Quốc Toản. Các trụ cột chủ yếu để xây dựng hệ giá trị và phát triển văn hoá

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    CÁC TRỤ CỘT CHỦ YẾU ĐỂ XÂY DỰNG
    HỆ GIÁ TRỊ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRONG ĐIỀU KIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA,
    PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

  • Tác giả:

    PGS.TS. Trần Quốc Toản
    Phó trưởng Tiểu ban Văn hóa - Xã hội - Con người (HĐLLTW)
    Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ

Trần Quốc Toản. Các trụ cột chủ yếu để xây dựng hệ giá trị và phát triển văn hoá

Sức sống lâu bền và sự phát triển của một nền văn hóa - các giá trị văn hóa phải dựa trên những trụ cột mang tính nền tảng, các trụ cột này phải được (và tất yếu) dựa trên sự phát triển của nền sản xuất và đời sống xã hội. Trong phát triển văn hóa - các giá trị văn hóa có thể xác định ba trụ cột chủ yếu sau:

1- Phát triển đời sống văn hóa - lối sống văn hóa (vừa là hệ quả, là một phương thức thể hiện của nền sản xuất xã hội, các quan hệ xã hội, vừa là động lực phát triển của nền sản xuất xã hội, và các quan hệ xã hội), thể hiện giá trị xã hội, giá trị văn hóa, giá trị con người, trình độ phát triển của một xã hội với những đặc điểm dân tộc; đó không phải chỉ là lối sống sinh hoạt, các quan hệ xã hội, mà còn là toàn bộ các giá trị - chuẩn mực - quy tắc trong quan hệ lao động sản xuất xã hội (cả quan hệ sản xuất và quan hệ phân phối và tiêu dùng) và trong thể chế phát triển xã hội. Như vậy, bản chất của đời sống văn hóa - lối sống văn hóa thể hiện những giá trị con người, giá trị xã hội hình thành trong quá trình sản xuất và trong các quan hệ xã hội; đó còn là tình yêu và ý thức trách nhiệm trong lao động, tính kỷ luật và tác phong lao động, tính khoa học trong lao động, tính hiệu quả trong lao động, tính cộng đồng và hợp tác trong lao động, năng lực đổi mới và sáng tạo trong lao động; đó là những giá trị về quyền con người, quyền công dân, những lợi ích chính đáng của con người được thừa nhận và tôn vinh, là tình yêu quê hương - đất nước, là ý thức dân tộc, là lối sống kỷ cương nhưng đầy nhân văn và sự chia sẻ không chỉ giữa con người với con người, với cộng đồng và trong xã hội, mà còn là trách nhiệm giữa Nhà nước với con người, với xã hội, và ngược lại. Đó còn là những giá trị hiện thực của nhà nước pháp quyền và xã hội công dân, trong đó Nhà nước tôn trọng, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng và nhân phẩm con người, phát huy những giá trị con người và giá trị công dân, còn mọi người dân và mọi tổ chức trong xã hội phải tôn trọng, sống và làm việc theo pháp luật; đó còn là những giá trị phi quan phương nhưng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của con người, gia đình, cộng đồng và xã hội (cả về phương diện tích cực và tiêu cực), mà nếu thiếu chúng xã hội sẽ phát triển dường như “không có hồn”. Tất cả những giá trị trên được “sinh thành”, phát triển, sàng lọc, cô đúc, tái sinh, nảy nở những giá trị mới ở tầm cao hơn cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất, xã hội hóa nền sản xuất và sự phát triển của toàn xã hội. Những giá trị văn hóa, giá trị xã hội, giá trị con người trong xã hội thường đa diện, đa chiều, đa tầng, là những giá trị mang tính tương tác “có đi có lại”, hỗ trợ lẫn nhau giữa những con người, các đơn vị xã hội, xã hội và Nhà nước, tạo nên những giá trị đặc trưng diện mạo văn hóa của một dân tộc. Trong mỗi bước phát triển của nền sản xuất xã hội, trình độ của lực lượng sản xuất, đều tạo ra điều kiện đòi hỏi phải thay đổi và phát triển cách sống, lối sống, giá trị con người, giá trị văn hóa tương thích với nó, đồng thời cũng chính quá trình phát triển nền sản xuất xã hội lại tạo cơ sở vật chất và môi trường xã hội để hình thành và phát triển các giá trị mới, loại bỏ các giá trị lỗi thời. Có thể nói, điểm quy tụ cao nhất, sâu nhất, đặc trưng nhất và bền vững nhất của phát triển văn hóa là hình thành được những giá trị con người, giá trị xã hội trở thành lối sống, lẽ sống, nhân cách, lý tưởng sống, ý thức lao động, trách nhiệm đối với gia đình, trách nhiệm xã hội, trách nhiệm đối với đất nước,… trong đời sống thường nhật và trong lao động sản xuất của mỗi con người, mỗi đơn vị, cũng như toàn xã hội, phù hợp với mỗi bước phát triển của xã hội; đồng thời Nhà nước với tư cách là một thiết chế xã hội cao nhất phải là “bà đỡ” cả về mặt pháp lý, cả về mặt thể chế, cả về mặt cơ sở vật chất và trách nhiệm xã hội để đảm bảo cho nền văn hóa đó phát triển trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế và xã hội, mà trung tâm là con người.

Chính vì vậy, việc xây dựng, hình thành và phát triển đời sống văn hóa - lối sống văn hóa tốt đẹp trở thành những giá trị phổ quát, bền vững, “chi phối”, “điều chỉnh”, “định hướng” sự phát triển của một dân tộc, của một cộng đồng, của mỗi đơn vị, mỗi gia đình và mỗi con người là một trong những trụ cột quan trọng nhất của phát triển văn hóa. Một dân tộc, trong những điều kiện nào đó, khi chưa định hình được những giá trị con người, giá trị văn hóa mang tính phổ biến thể hiện thành đời sống - lối sống văn hóa, thì khi đó văn hóa chưa trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Điều này lại càng đặc biệt quan trọng trong những giai đoạn biến đổi mang tính bước ngoặt của một đất nước; khi thay đổi thể chế phát triển, đòi hỏi phải hình thành những giá trị con người mới, giá trị xã hội mới, như khi Việt Nam chuyển từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang phát triển theo thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải hình thành những giá trị con người và giá trị xã hội mới phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Nhưng đây lại là quá trình không đơn giản và nhanh chóng, vì những giá trị con người và những giá trị xã hội mới mang tính hiện thực không thể được hình thành từ mong muốn chủ quan, duy ý chí, mang tính lý tưởng; mà nó là sản phẩm “song sinh” của chính quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là quá trình đấu tranh, chuyển hóa, đào thải, phát triển giữa các giá trị mới với các giá trị cũ, giá trị tiên tiến với giá trị lạc hậu, giá trị dân tộc với giá trị quốc tế,… Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận vai trò của nhân tố chủ quan (như vai trò lãnh đạo của Đảng [ở các quốc gia theo thể chế Đảng cầm quyền như Việt Nam] và quản lý của Nhà nước) trong việc định hướng và tạo lập thể chế, khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách,… cho sự hình thành và phát triển các giá trị con người, giá trị xã hội thích ứng với đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới.

2- Phát triển sáng tạo văn hóa: Đây là trụ cột thể hiện sức sống sinh động của một nền văn hóa trong quá trình phát triển. Điều quan trọng là cần nhận thức rõ bản chất của sự sáng tạo văn hóa. Sự sáng tạo văn hóa nằm sâu từ trong bản chất của sự sáng tạo trong nền sản xuất xã hội, đời sống xã hội, trong chế ngự tự nhiên, trong đấu tranh,… và trong thể chế phát triển xã hội, thông qua những hoạt động của con người. Có thể nói rằng không có lao động sản xuất xã hội thì không có sáng tạo văn hóa. Xét theo chiều dài lịch sử phát triển của mỗi dân tộc cũng như của toàn nhân loại, thì về nguyên tắc, trình độ phát triển nền kinh tế - xã hội càng cao thì nền văn hóa càng cao. K. Marx đã nêu một luận điểm rất đáng lưu ý là: Đối với mỗi nền sản xuất, điều quan trọng không phải là sản xuất ra cái gì, mà là sản xuất như thế nào. Chính việc “sản xuất như thế nào” nói lên trình độ của nền sản xuất, và đó cũng là trình độ của nền văn hóa (cũng có thể gọi là nền văn minh); nó không chỉ nói lên việc nền sản xuất đó sử dụng công cụ gì, trình độ công cụ như thế nào, mà còn về phương thức và quan hệ con người trong nền sản xuất đó như thế nào, cách tổ chức của xã hội tạo ra nền sản xuất đó ra sao. Chính sự sáng tạo trong nền sản xuất xã hội và trong mọi mặt đấu tranh và phát triển của đời sống xã hội đã được “cô đúc” lại thành những giá trị văn hóa (cả vật thể và phi vật thể), giá trị con người, giá trị xã hội tương ứng trình độ của nền sản xuất xã hội đó. Đương nhiên ở đây còn phải chứa đựng những giá trị văn hóa mang đặc điểm của từng dân tộc; nhưng bản thân những giá trị văn hóa mang đặc điểm dân tộc cũng bị thay đổi, vận động, phát triển thích ứng với sự phát triển của trình độ nền sản xuất xã hội. Do đó, việc phát triển một nền kinh tế tiên tiến hiện đại với một thể chế kinh tế hiện đại - nhân văn bản thân nó đã là sự “cô đúc” những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiên tiến, đồng thời nó lại là điều kiện, tiền đề và môi trường để tiếp tục phát triển sáng tạo văn hóa. Cần nói thêm rằng, do nhận thức không đầy đủ về bản chất của văn hóa, bản chất của quá trình sáng tạo văn hóa, nên về sáng tạo văn hóa đã không quan tâm và đề cập sâu sắc đến sáng tạo về công cụ sản xuất (thay thế sức cơ bắp và nâng cao hơn trí tuệ của con người), về sự sáng tạo trong các dịch vụ và sản phẩm mới, về hình thành các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh mới hiệu quả hơn, về hoàn thiện các thể chế thiết chế xã hội dân chủ hơn và hiệu quả hơn, về phát triển các quan hệ xã hội hiện đại hơn. Đó cũng là những nội dung bản chất rất quan trọng của văn hóa được thể hiện thành các giá trị xã hội. Trên thực tế, hiểu về sáng tạo văn hóa thường thiên lệch về theo nghĩa hẹp là sáng tạo trong các các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật, trong quan hệ ứng xử xã hội,…

Trên thực tế, trong lịch sử phát triển của mỗi dân tộc (thậm chí của mỗi vùng), sự phát triển và sáng tạo các lĩnh vực văn hóa thường không đều nhau, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, những lĩnh vực kinh tế hay lĩnh vực xã hội nào phát triển hơn, chi phối đời sống xã hội mạnh hơn, thì văn hóa về những lĩnh vực đó cũng thường phát triển vượt trội hơn (ví dụ như đất nước phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc, hay phải chống trọi lại với sự khắc nghiệt của thiên nhiên như bão, lũ lụt,… thì văn hóa về những lĩnh vực này như lòng yêu nước, ý thức đoàn kết cộng đồng, khoa học nghệ thuật quân sự,… cũng có sự phát triển nổi trội hơn các lĩnh vự khác). Vì thế, có thể sẽ là sai lầm, không thỏa đáng khi lấy sự phát triển văn hóa về một lĩnh vực cụ thể nào đó để khái quát chung cho tất cả các lĩnh vực khác, mà không nhìn sâu vào trong bản chất văn hóa thể hiện trình độ của nền sản xuất - tổ chức đời sống xã hội.

Cần nhận thức đầy đủ rằng trong quá trình phát triển sáng tạo văn hóa, có sáng tạo văn hóa quần chúng, có sáng tạo văn hóa chuyên nghiệp (ở đây không dùng khái niệm văn hóa “đỉnh cao”, hay “văn hóa bác học” vì trong cả sáng tạo văn hóa quần chúng và trong sáng tạo văn hóa chuyên nghiệp đều có thể có những giá trị đỉnh cao, đồng thời cũng có cả những giá trị bình thường). Cả hai loại hình sáng tạo văn hóa này không thể coi nhẹ loại hình nào, không thể lấy loại hình này thay thế loại hình kia. Có thể coi đó như là “cặp song sinh” của một nền văn hóa. Nhận thức và sự phát triển thiên lệch một trong hai loại hình sáng tạo đều dẫn đến sự suy yếu sức mạnh và sự liên kết “cộng sinh” của văn hóa. Sáng tạo văn hóa chuyên nghiệp có vai trò rất quan trọng tạo nên những sản phẩm văn hóa “đỉnh cao”, quy mô lớn. Song nếu chỉ chú trọng phát triển văn hóa chuyên nghiệp, thì văn hóa đó dần sẽ xa rời tuyệt đại đa số những người lao động bình thường, “biến” họ thành những người được “thụ hưởng” những giá trị văn hóa do người khác mang lại thông qua “đọc, nghe, nhìn, xem”, phần văn hóa trở thành “của họ” trong đó sẽ rất ít và dễ qua đi. Đối với họ, văn hóa không phải đơn giản như chiếc vé đi xem biểu diễn mà người ta mang đến biếu, mà nó chính là cuộc sống lao động của họ, là miếng cơm manh áo của họ, là những nỗi lo toan thường nhật của họ, là niềm vui, nỗi buồn và hạnh phúc của họ. Sáng tạo văn hóa quần chúng có thể nói đó là văn hóa “của chính họ”, do chính họ là chủ thể sáng tạo từ chính cuộc sống của họ và quay trở lại phục vụ chính họ, nó phản ánh không chỉ hiện thực đời sống của họ mà còn phản ánh ý chí, ước mơ, khát vọng của họ, do đó nó thường tạo nên những giá trị sức sống, đời sống, lối sống lâu bền. Từ ngàn xưa, ở Việt Nam, dưới lũy tre làng đã nảy nở, tồn tại, sáng tạo và phát triển những giá trị văn hóa này, tạo nên sức mạnh trường tồn mà một nghìn năm Bắc thuộc không thể đồng hóa và tiêu diệt được. Chính vì vậy, cả hai loại hình sáng tạo văn hóa phải phát triển cộng sinh với nhau, tạo thành trụ cột sáng tạo văn hóa vững mạnh. Có thể liên hệ một cách hình ảnh là, ngày nay, ở Việt Nam có những nông dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chế tạo ra những chiếc máy gặt, máy cắt cỏ,… rất phù hợp, hiệu quả và giá rẻ, trong khi rất nhiều viện nghiên cứu, trường đại học với nhiều cán bộ khoa học lại chưa chế tạo ra được những máy móc tương tự đáp ứng nhu cầu thiết thực của người nông dân. Vì vậy, sáng tạo văn hóa chuyên nghiệp phải gắn được với đời sống hiện thực, “sống” bằng hơi thở của đời sống hiện thực, không phải chỉ là sản phẩm để mang đến cho người khác (công chúng, nhất là đông đảo những người lao động) “thụ hưởng”, mà điều quan trọng hơn là phải trở thành các giá trị văn hóa “của họ”. Đó cũng là mục đích cao cả của phát triển sáng tạo văn hóa.

3- Phát triển các thể chế, thiết chế văn hóa: Khái niệm thể chế văn hóa hiện đang có những cách hiểu khác nhau về phạm vi bao quát (phạm vi hẹp để chỉ các thiết chế văn hóa là các cơ sở, các đơn vị văn hóa như trong quy hoạch của nhà nước về phát triển các thiết chế văn hóa; nghĩa rộng bao hàm đầy đủ các nội hàm của một thể chế xã hội để phát triển văn hóa mà các thiết chế văn hóa là một phân hệ). Theo nghĩa rộng, thể chế văn hóa sẽ bao gồm đồng bộ cơ sở pháp lý (khung pháp luật tạo nên thể chế pháp lý phát triển văn hóa), hệ thống các chủ thể tham gia vào hoạt động văn hóa hay gắn với các hoạt động văn hóa, hệ thống quản lý nhà nước về hoạt động văn hóa, và cơ chế điều tiết của thị trường, hệ thống các thiết chế văn hóa (theo nghĩa hẹp),… Hệ thống thể chế - thiết chế văn hóa có chức năng cơ bản là tạo điều kiện và “môi trường sống” cho các giá trị văn hóa, cho các hoạt động văn hóa; điều hòa và phối hợp giữa các chủ thể, các hoạt động văn hóa; giám sát - định hướng - điều chỉnh các hoạt động văn hóa theo những giá trị tốt đẹp đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cá nhân, đơn vị, cộng đồng và của toàn xã hội. Bản thân hệ thống luật pháp và các quy tắc ứng xử xã hội (như các hương ước…) đều quy định các giá trị xã hội, giá trị văn hóa, giá trị con người mà mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng, toàn xã hội và cả Nhà nước phải tuân theo (về nguyên tắc). Xét về bản chất cũng như yêu cầu thực tế thì tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh, các đơn vị xã hội, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, gia đình và các thiết chế khác đều cần và phải coi là thiết chế văn hóa. Chính các “chủ thể” này sẽ nuôi dưỡng và phát triển các giá trị văn hóa chung và các giá trị văn hóa đặc trưng riêng của mình trở thành bản sắc văn hóa tốt đẹp - một nội dung mang tính bản chất của sự phát triển (một gia đình, một cơ quan, hay một doanh nghiệp tạo lập được những giá trị và truyền thống văn hóa riêng của mình thì đó là một nguồn lực bền vững cho sự phát triển). Ở các quốc gia đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam hiện nay, bản thân các doanh nghiệp tiên tiến - hiện đại đang chính là các thiết chế tạo lập các giá trị văn hóa lao động - giá trị con người mới (như tính hiệu quả, tính kỷ luật lao động trong các dây chuyền sản xuất, tính sáng tạo, tính tự chủ,…) mà nền sản xuất nhỏ không thể có được. Chính vì vậy, có thể coi các thể chế - thiết chế văn hóa như những “giá mang” cho quá trình phát triển văn hóa, hình thành các giá trị văn hóa, giá trị con người. Có những thiết chế vật chất, có những thiết chế phi vật chất; có những thiết chế quan phương và có những thiết chế phi quan phương. Một hệ thống thể chế - thiết chế văn hóa phù hợp sẽ tạo được động lực mạnh cho sự phát triển văn hóa lành mạnh và sáng tạo, nhân lên những giá trị tốt đẹp (đó cũng là một động lực nội sinh quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội). Ngược lại, một hệ thống thể chế - thiết chế văn hóa không phù hợp sẽ không chỉ là “lực cản” mà còn là “tác nhân” gây nên sự phát triển lệch lạc, kém hiệu quả, “kích hoạt và lan tỏa” những “giá trị tiêu cực” trong kinh tế, trong đạo đức xã hội và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; “đẩy” những giá trị tốt đẹp vào thế yếu - không được bảo vệ, không được tôn vinh và dần bị băng hoại, trong đó băng hoại về lòng tin vào những giá trị tốt đẹp là một cảnh báo nghiêm trọng, nó làm giảm đi động lực phát triển trong mỗi con người, mỗi đơn vị xã hội, mỗi cộng đồng cũng như trong toàn xã hội. Trong xã hội hiện nay có những hiện tượng “vô cảm” với nỗi đau của người khác, ra đường không dám ngăn cản các tệ nạn (như các vụ đánh nhau) vì sợ bị trả thù, có những nơi dân cả làng đánh chết “cẩu tặc” vì nhiều lần không ai bảo vệ được con vật nuôi rất thân thiết của họ (dù giá trị con vật đó chỉ mấy triệu bạc). Đó thực sự là những điều rất đáng suy ngẫm về sự thiếu hụt những thiết chế và giải pháp bảo vệ và phát huy những giá trị tốt đẹp, hạn chế và triệt tiêu những “giá trị tiêu cực”. Chính vì vậy, việc xây dựng và phát triển một hệ thống các thể chế - thiết chế văn hóa đồng bộ phù hợp và hiệu quả là một trong những trụ cột trọng yếu, vì đó chính là tạo nên mảnh đất để “gieo trồng” và phát triển sáng tạo văn hóa, nuôi dưỡng và phát triển các giá trị tốt đẹp. Nhưng việc xây dựng thể chế và các thiết chế phát triển văn hóa không thể chỉ “nhìn” thuần túy từ giác độ văn hóa, không tính tới các mối quan hệ mang tính chế định và tương tác với tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đặc biệt là thể chế và trình độ phát triển kinh tế, thể chế và trình độ phát triển xã hội.

Xây dựng thể chế và các thiết chế phát triển văn hóa một mặt phải xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của quá trình phát triển (hiện thực) của kinh tế, xã hội, nhằm thức đẩy hình thành các giá trị con người, giá trị xã hội mới đáp ứng với đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; mặt khác phải tạo được các “rào cản” ngăn chặn, làm suy yếu, triệt tiêu tác động của các “giá trị” cũ không còn phù hợp, các tác động cản trở, tiêu cực…, để các giá trị văn hóa mới thực sự trở thành “nội lực” cơ bản tạo nên tư cách chủ thể phát triển sáng tạo của mỗi con người, mỗi đơn vị, mỗi cộng đồng và của cả dân tộc trong quá trình xây dựng - phát triển - bảo vệ Tổ quốc.

4- Phát triển đồng bộ ba trụ cột văn hóa: Việc quan tâm xây dựng và phát triển đồng bộ ba trụ cột nêu trên có thể coi là những nội dung chủ yếu trong định hướng phát triển văn hóa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp nằm trong tổng hòa hình thành các giá trị văn hóa mới đáp ứng với đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới. Sự phát triển đồng bộ ba trụ cột cùng đều được thể hiện ở các cấp độ khác nhau:

+ Cấp độ quốc gia

+ Cấp độ dân tộc - tộc người

+ Cấp độ cộng đồng dân cư, nơi công cộng

+ Cấp độ tổ chức, đơn vị (công sở, doanh nghiệp, nhà trường,…)

+ Cấp độ dòng họ, gia đình

+ Cấp độ cá nhân.

Xét trong bản chất, ba trụ cột chủ yếu phát triển văn hóa đó đều chứa đựng mối quan hệ biện chứng giữa sự phát triển kinh tế, phát triển chính trị và phát triển văn hóa. Xét trong phạm vi một quốc gia, với sự phát triển bình thường không trải qua những đột biến (biến cố), thì một cách tổng quát có thể nói rằng văn hóa thường phát triển “chậm” hơn kinh tế và tính “bảo thủ” - độ trễ tác động của văn hóa thường cao hơn so với phát triển kinh tế. Có thể nêu một ví dụ mang tính điển hình là vấn đề tai nạn giao thông ở Việt Nam hiện nay: Đất nước đã đầu tư xây dựng nhiều con đường giao thông tốt hơn, rộng hơn, kể cả những con đường cao tốc hiện đại, phát triển giao thông nông thôn,… nhưng tai nạn giao thông vẫn rất nghiêm trọng, đường giao thông càng hiện đại tai nạn giao thông xẩy ra càng nghiêm trọng; ở đây có vấn đề về văn hóa giao thông không “theo kịp” với phát triển hệ thống giao thông. Điều này thể hiện cả trong pháp luật, cơ chế, chính sách giao thông, cả trong ý thức và văn hóa của những người thực thi công vụ về giao thông, cả trong hiểu biết, ý thức và văn hóa giao thông của những người tham gia giao thông (lái các loại xe và đi bộ). Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay cả về kinh tế và văn hóa thì các yếu tố quốc tế hóa (cả về kinh tế và văn hóa) sẽ tác động không chỉ “trực tuyến” theo từng cặp “kinh tế - kinh tế”, “văn hóa - văn hóa” mà còn tác động đan chéo nhau, “thẩm thấu” vào nhau giữa kinh tế với văn hóa làm cho sự phát triển của cả kinh tế và văn hóa của đất nước không còn “tuần tự” như trong điều kiện bình thường nữa, nó có thể đưa đến những đột biến (xung đột), cộng hưởng (cả tích cực và tiêu cực) cả trong kinh tế và văn hóa và trong sự sự tương tác giữa kinh tế và văn hóa. Đây là điều rất cần nhận thức rõ và sâu sắc trên tất cả các cấp độ phát triển văn hóa, để trên cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện thể chế - các thiết chế văn hóa phù hợp, hiệu quả nhằm tạo điều kiện đề hình thành và phát triển các giá trị văn hóa, giá trị con người mới đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn mới.

Tài liệu tham khảo

  1. Bùi Đình Phong 2012: Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-hoc-ung-dung/van-hoa-kinh-doanh/2233-bui-dinh-phong-giai-quyet-moi-quan-he-giua-tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-ben-vung.html
  2. Bùi Đình Phong 2013: Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế. - http://www.tuyengiao.vn/Home/Tuyen-truyen/49543/Quan-he-giua-van-hoa-va-kinh-te
  3. Daron Acemoglu & James A. Robinson 2013: Tại sao các quốc gia thất bại. - NXB Trẻ.
  4. Đức Huy 2013: Phải đặt phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế. - http://www.baovanhoa.vn/Nghiquyettrunguong5khoa8/54226.vho
  5. Hồ Chí Minh 1996: Toàn tập, t.- H.: NXB Chính trị Quốc gia.
  6. Lê Xuân Kiêu: Một số vấn đề về văn hóa và phát triển. - http://huc.edu.vn/chi-tiet/1046/Mot-so-van-de-ve-van-hoa-va-phat-   trien.htm
  7. Nguyễn Đức Bình 2012: Quan hệ giữa văn hóa với kinh tế. - Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2012.
  8. Nguyễn Hồng Vinh 2012: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và văn học, nghệ thuật trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - http://www.hopa.vn/ly-lun-phe-binh/380-mi-quan-h-gia-tng-trng-kinh-t-vi-phat-trin-vn-hoa-va-vn-hc-ngh-thut-trong-thi-k-cong-nghip-hoahin-i-hoa.html
  9. Nguyễn Trần Bạt 2005: Văn hóa và Con người. - NXB Hội Nhà văn.
  10. Nguyễn Văn Diễn: Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế. - http://voer.edu.vn/m/moi-quan-he-giua-van-hoa-va-kinh-te/15d34f8b
  11. Nguyễn Văn Hậu 2013: Quan hệ biện chứng giữa văn minh và văn hóa trong thời kỳ hội nhập. - http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vhh-cac-truong-phai-trao-luu/2523-nguyen-van-hau-quan-he-bien-chung-giua-van-minh-va-van-hoa-trong-thoi-ky-hoi-nhap.html
  12. Phạm Xuân Nam 2011: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiệtiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ. -http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2011/13010/Moi-quan-he-giua-tang-truong-kinh-te-va-phat-trien-van.aspx
  13. Trần Quốc Toản 2013: Một số ý kiến về định hướng phát triển văn hóa. - Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Những định hướng chủ yếu tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới” do Hội đồng Lý luận T.Ư phối hợp Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM tổ chức tháng 12/2013.
  14. Trần Văn Bính 2012: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa: một số   vấn đề lý luận và thực tiễn. - Tạp chí Tuyên giáo, số 1/2012.
  15. Văn kiện 1998: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá VIII. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.
  16. Vũ Văn Phúc 2012: Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta: Quan niệm, thực trạng và giải pháp. - http://123.30.190.43/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&;subtopic=306&leader_topic=&id=BT851236349

    Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”
Lên trên

Cùng chủ đề

  • Bùi Hoài Sơn, Đỗ Thị Thanh Thủy. Cơ hội và thách thức đối với sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030

  • Joseph Caspermeyer. Nghiên cứu mới cho thấy sự đa dạng di truyền của người Việt Nam

  • Nguyễn Chu Hồi. Biển, đảo Việt Nam - Bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc

  • Nguyễn Huy Phòng. Thách thức trong kiến tạo hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam hiện nay

  • Nguyễn Văn Thanh. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 114
  • Tổng :
  • 3 8 1 0 6 8 3 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

VHVN: Những vấn đề chung