GS. Trần Ngọc Thêm trả lời
Câu hỏi thứ nhất của bạn là một câu hỏi chung cho cấp đào tạo sau đại học của mọi ngành, chứ không chỉ riêng cho ngành văn hoá học:
Mai Thanh Trần đã viết: khi học ngành Văn hoá học, em thấy 1 điều, là khi nghiên cứu vấn đề gì đó, thì ta cho là ta đúng. Và vì thế lúc đầu, em thật sự ngạc nhiên khi các thầy, ở các bộ môn khác nhau, hay trong cùng 1 bộ môn, đều bảo vệ đến cùng quan niệm của mình. Đôi khi còn hướng học viên theo cách hiểu của mình, theo e, đó không fải là cách học mở rộng
Trên lớp, tôi đã nói rằng cần phân biệt khoa học (là sản phẩm trí tuệ phương Tây) và đạo học (là sản phẩm trí tuệ phương Đông) – đó là hai phương thức tư duy khác nhau, với những ưu điểm và nhược điểm riêng của mình. Trong đó nhược điểm của đạo học là sức thuyết phục thấp, còn nhược điểm của khoa học là luôn luôn chứa sai lầm.
Nay bạn nhận thấy các thầy cô từ nhiều bộ môn khoa học khác nhau, thầy cô nào cũng “đều bảo vệ đến cùng quan niệm của mình” – trong số đó có cả tôi, người đang giảng và do vậy hiểu rất rõ rằng trong số những điều tôi giảng cho các bạn chắc chắn có thể có chứa sai lầm.
Vậy câu hỏi của bạn đại khái có thể đặt lại thành: “Thưa thầy Thêm, giữa lời nói và việc làm của thầy là có mâu thuẫn. Biết là có thể sai, mà còn cố bảo vệ đến cùng quan niệm của mình. Đôi khi còn hướng học viên theo cách hiểu của mình. Đó không phải là cách học mở rộng. Tại sao thầy không dạy những giá trị do người khác sáng tạo?”
Tôi xin trả lời:
Tất cả các thầy cô lên lớp cho hệ sau đại học đều là những nhà nghiên cứu, họ đều có những đề tài, những công trình, những sản phẩm của riêng mình.
Một trong những đức tính quan trọng nhất của người làm khoa học – mà các bạn đang “tập sự” – là trung thực. Trung thực với chân lý, trung thực với mọi người, và trung thực với chính bản thân mình.
Do vậy, với kết quả nghiên cứu của mình, thì hơn ai hết, chính bản thân mình phải tin tưởng sâu sắc rằng nó đúng. Nếu nhận ra có chỗ nào sai, thì họ đã sửa ngay rồi. Nếu nhận ra toàn bộ là sai, thì họ đã từ bỏ nó rồi. Nếu chính mình còn không tin vào điều mình nghĩ, thì làm sao mà đi dạy người khác được? Họ sẽ tin tưởng và “kiên quyết bảo vệ” nó cho đến chừng nào nhận ra chỗ sai của nó. Vì vậy, những nhà nghiên cứu có học trò, là những nhà khoa học hạnh phúc: vì trong quá trình “cọ xát” tư tưởng giữa thầy và trò, chân lý sẽ bật ra, và trước khi nhắm mắt, thầy còn kịp sửa những chỗ sai do học trò phát hiện hoặc giúp phát hiện.
Tại sao không “mở rộng” ra, dạy những kết quả của người khác? Dạy kết quả của người khác là chuyện của cấp học phổ thông. Ở cấp sau đại học, không phải là không dạy kiến thức của người khác, mà là không tập trung cho việc này. Có nhiều lý do, nhưng có hai lý do chính: Một, vì thời gian ít quá, người thầy chỉ có thể “nêu lên” tóm tắt kết quả của người khác để chỉ ra chỗ đúng của người khác mà mình đã tiếp thu, và chỗ sai của người khác, mà mình đã bổ sung và thay thế. Hai, nếu cả mình và người khác đều có (thể có) chỗ sai, thì giữa cái sai của mình mà mình chưa nhìn ra, và cái sai của người khác, mà mình đã nhìn ra (hoặc tưởng là đã nhìn ra) rồi, thì nên chọn giới thiệu kỹ cái nào, chắc là chúng ta đều thấy quá rõ!
Vì thời gian ít, và để có hiệu quả cao, thì dạy không cần phải mở rộng, mà chính là ngược lại: Dạy phải chuyên sâu, còn học phải mở rộng.
Không ai khác hơn là chính các bạn phải tự đọc thêm những sản phẩm của các nhà nghiên cứu khác mà các thầy cô đã giới thiệu (và cả chưa giới thiệu) trong danh mục tài liệu tham khảo, rồi nghiên cứu kỹ chúng, đối chiếu với những gì thầy cô đã giảng để mỗi học viên tự làm Bao Công phân xử xem ai đúng ai sai, và tranh biện lại với thầy cô. Đó mới thực là học, nhất lại là học Sau Đại Học. Một buổi lên lớp nghe giảng phải kèm theo từ 2 đến 10 buổi tự làm việc ở nhà. Trong các bạn, được bao nhiêu người đã làm việc như thế?
Bạn sẽ hỏi tiếp: Thầy cô biết là có sai, sao còn đem dạy làm gì? Và trò biết là có sai, sao còn phải học?
Thưa, vấn đề là ở chỗ, về nguyên tắc biết là có (thể) sai, nhưng chưa biết rõ là nếu có thì sai ở chỗ nào. Và vì biết là có (thể) sai, nên nguyên lý quan trọng nhất của đào tạo đại học và sau đại học là: Ở cấp học này không tập trung dạy nội dung kiến thức, mà tập trung dạy phương pháp - phương pháp tư duy, phương pháp phát hiện sai lầm, phương pháp sáng tạo. Dạy đại học và sau đại học chủ yếu là dạy phương pháp, và học đại học và sau đại học chủ yếu cũng là học phương pháp.
Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, điều hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời đi học là được học với những người thầy có bản lĩnh khoa học vững, năng lực sáng tạo cao, được học nhiều về phương pháp. Còn điều hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời đi dạy là gặp được những học trò thông minh, dám “đại nghi” (như Mai Thanh) để nhờ đó mà cả thầy và trò đều “đại ngộ”.
Câu hỏi thứ hai của bạn thuộc về lĩnh vực văn hoá học:
Mai Thanh Trần đã viết: khi chúng ta đưa ra các vấn đề, và chúng ta coi đó là 1 bộ phận của Văn hoá, hay tất cả đều là Văn hoá?... Học môn của thầy, thì nhìn bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, cũng thấy có yếu tố của Văn hoá. Đó có thể là cách tiếp cận vấn đề ở góc độ mới, ở góc của người nghiên cứu, nhưng có khi nào, có người lại cho rằng chúng ta cũng đang lạm dụng từ Văn hoá không ạ? Theo e, mỗi người có 1 quan điểm riêng. Chúng e học phương pháp nghiên cứu, tiếp cận vấn đề. Nhưng nếu sau khi học xong, cái gì cũng trở thành Văn hoá, thì có giống như "bệnh nghề nghiệp" không thầy?
Như tôi đã nói, khái niệm “văn hoá” có hai cách hiểu: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn hoá học nghiên cứu văn hoá theo nghĩa rộng – tất cả mọi giá trị do con người tạo ra (có tính lịch sử, tính hệ thống) đều thuộc về văn hoá.
Song trong cuộc sống bình thường thì người ta lại hay dùng các cách hiểu “văn hoá” theo nghĩa hẹp. Phổ biến nhất là cách hiểu “văn hoá = văn hoá tinh hoa” (văn hoá nghệ thuật).
Và vì vậy, có nhiều người rất sợ hãi khi nghe những cụm từ lạ tai có chứa từ “văn hoá”. Họ nghĩ rằng xã hội đang lên cơn sốt về văn hoá, đang hóa rồ, đang lạm dụng từ “văn hoá”…
Đúng là trong xã hội hiện đang có hiện tượng lên cơn sốt về văn hoá thật (chắc là trong số các bạn không phải không có người đi học cao học VHH dưới ảnh hưởng của cơn sốt ấy!). Trong xã hội hiện nay cũng đang có nhiều người lạm dụng từ “văn hoá” thật. Ví dụ có người tập hợp những bài viết cách đây mấy chục năm với nội dung chẳng liên quan gì đến văn hóa để in ra, nhưng vì muốn sách của mình hấp dẫn, bèn đặt cho sách một cái tên có chứa từ "văn hóa". Có ông giám đốc công ty chẳng hiểu gì về văn hóa nhưng nói rất nhiều về văn hóa của công ty mình, v.v.
Nhưng bên cạnh đó, phải nhận rằng cụm từ “văn hoá công ty” từng được xem là xa lạ nay đã quen tai. Cụm từ “văn hoá đảng”, “văn hoá công đoàn” từng bị không ít người phản đối nay cũng quen dùng dần. Nhưng phản đối vì sao chứ? “Văn hoá dân tộc” chấp nhận được thì tại sao “văn hoá công ty”, “văn hoá đảng”, “văn hoá công đoàn”, “văn hoá nam giới” (= “văn hoá đàn ông”), “văn hoá phụ nữ” (văn hoá đàn bà”), v.v. lại không chấp nhận được? Đó đều là những hệ thống giá trị do chủ thể là những nhóm người khác nhau sáng tạo ra.
Từ lâu ta đã chấp nhận các khái niệm “văn hoá ẩm thực”, “văn hoá trang phục”, “văn hoá giao thông”, vậy tại sao “văn hoá tình dục”, “văn hoá bài tiết”, “văn hoá ngủ”, v.v. lại không chấp nhận được? Đó đều là những hệ thống giá trị do con người sáng tạo ra trong những hoạt động đời sống cụ thể. Ăn và ỉa đều có thể có văn hoá và phi văn hoá. Ăn và ỉa như con vật là phi văn hoá. Người bị bệnh, không tự điều khiển được mình, ta nói là họ sống “cuộc sống thực vật” (= phi văn hoá). Vậy thì việc ỉa sao cho bớt hôi thối, bớt ảnh hưởng đến người khác là văn hoá chứ? Chặng đường của văn hoá bài tiết trong đô thị, từ ỉa vào thùng, sáng sáng có xe đến đổi, cho đến ỉa vào hố xí hiện đại nằm ngay cạnh phòng ăn, phòng khách, là cả một chặng đường văn hoá đầy sáng tạo đấy chứ? Nếu nâng lên một bước nũa, ỉa sao cho không những không bẩn, không hôi thối, mà còn có lợi cho đời nữa thì càng văn hoá chứ? Cả làng Cổ Nhuế (Hà Nội) vốn sinh tồn bằng nghề hót phân đem bón ruộng, làm ra những bông lúa tốt cho mọi người ăn, là văn hoá chứ? Nhiều người có học có thói quen tận dụng thời gian, vào nhà xí/toa-let vừa ngồi ỉa vừa đọc sách báo, làm thơ... chẳng lẽ không phải là văn hoá? Hơn nữa, không phải cứ bình sinh đời thường hôi hám thì không có quyền "văn hoá" bằng cái sạch sẽ văn minh. Kinh nghiệm sống hiện nay đã dạy cho chúng ta khôn ra để biết rằng một cây rau cải lá to và xanh rì một cách đáng ngờ do được chăm bón bằng hóa chất (= sản phẩm của văn minh) làm sao đáng tin bằng, làm sao lành bằng, làm sao "sạch" bằng (= làm sao "văn hoá" bằng) một cây rau cải được bón bằng phân hữu cơ và tưới bằng nước tiểu tự nhiên, lá có chỗ xanh chỗ vàng, có chỗ lành chỗ rách do sâu cắn? Và tương tự, chắc gì một sản phẩm của văn hóa tinh hoa (thơ, truyện, tranh, tượng, nhạc.. của các văn nghệ sĩ chuyên nghiệp) đã hơn được một câu ca dao, một truyện Trạng Quỳnh, một bức tranh Đông Hồ, một pho tượng nhà mồ, một bài ca Quan họ...?
Văn hoá đòi hỏi sự khoan dung.
K. Marx nói: “Không có cái gì thuộc về con người mà xa lạ với tôi cả”.
Ta thường nói: “Không có người phụ nữ xấu mà chỉ có những người phụ nữ không biết làm đẹp”.
Tôi xin nói: “Không có người/vật phi văn hoá mà chỉ có những người không đủ khoan dung để nhìn ra chất văn hoá trong cái sự vật/ hiện tượng tưởng chừng phi văn hoá”.
Chỉ ra cái văn hóa đúng như nó có, mà lâu nay mọi người không nhìn ra (vd, "văn hóa bài tiết") - đó không hề là sự lạm dụng từ "văn hóa" một chút nào, hơn thế nữa, đó chính là nhiệm vụ của nhà văn hóa học. Các sinh viên văn hóa học, HVCH-NCS văn hóa học hơn ai hết phải hiểu rõ điều này.
Tôi không giấu diếm mục tiêu dạy cho các bạn cách "giải thiêng" để nhìn thấy được giá trị văn hoá trong bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Thiếu kỹ năng đó, thì không thể trở thành người nghiên cứu văn hóa được. Cũng như nếu không dám nhìn thẳng vào cái xác trần truồng của nguời khác giới thì không thể trở thành bác sĩ chuyên ngành giải phẫu hay sản khoa được; nếu không đủ dũng cảm nhìn vào người mẫu khỏa thân trước mặt họ và trước mặt đồng nghiệp thì không thể trở thành họa sĩ chuyên vẽ người được; nếu sợ dơ bẩn không dám thò tay vào rửa đít trẻ con thì không thể trở thành người mẹ được...
Nhưng nếu cho rằng khả năng nhìn thấy được giá trị văn hoá trong bất kỳ sự vật, hiện tượng nào sẽ dẫn đến chỗ sau khi học xong, thấy cái gì cũng trở thành Văn hoá thì lại là một ngộ nhận sai lầm.
Một người "có chỗ xấu" không nhất thiết phải là một người xấu. Một sự vật, hiện tượng có chứa giá trị văn hóa, tự thân không nhất thiết phải là một giá trị văn hóa. Muốn là một giá trị văn hóa, thì đa phần các bộ phận khác trong nó cũng phải là giá trị văn hóa, và tất cả phải có đủ các đặc trưng văn hóa còn lại (tính hệ thống, tính nhân sinh, tính lịch sử), và phải được đặt trong hệ tọa độ gốc điển hình, v.v. Có phân biệt được những cái tinh tế đó thì mới có cơ sở để "mỗi người có một quan điểm riêng", nếu không thì cái "quan điểm riêng" đó chỉ là những lời tuyên bố đại ngôn với nhiều cảm tính và ít cơ sở khoa học.
Và khi đã biết nhìn thế giới bằng cặp mắt văn hóa học rồi thì "bệnh nghề nghiệp" là không thể tránh được. Người mạnh khỏe nào mà chẳng có lúc có bệnh. Bạn tưởng rằng trước khi đi học văn hóa học, bạn không có bệnh nghề nghiệp chăng (nếu bạn đã có một nghề)? Làm gì có người nào có nghề mà tránh được bệnh nghề? Có tránh được chăng chỉ là những người chưa đủ say mê, chưa hết lòng với nó. Và như vậy thì "bệnh nghề nghiệp" cũng không phải là một cái gì đáng xấu. Nghề nghiệp là sản phẩm của quá trình "phân tích tính"; "bệnh nghề nghiệp" là một phẩm chất nghề nghiệp cần thiết giúp ta đi sâu, tìm ra bản chất thực của sự vật. Bác sĩ nhìn đâu cũng thấy vi trùng, vì đúng là trên thực tế ở đâu cũng có vi trùng thật. Chỉ có điều cơ thể có khả năng tự đối phó (hoặc thích nghi) với vi trùng nên người thường chỉ "nhìn thấy" vi trùng khi cơ thể anh ta không tự đối phó (hoặc thích nghi) được. Nhà văn hóa học nhìn đâu cũng thấy chất văn hóa, vì đúng là trên thực tế ở đâu có con người là ở đó có giá trị văn hóa do con người tạo ra. Việc chỉ cho con người thấy được bản chất việc mình làm để rồi từ đó mà chủ động tận dụng / đối phó / sùng bái / lưu luyến nó là việc làm có ích. Việc một con người sống chết với nghề - người nông dân chết trên cánh đồng, người ngư dân chết trên biển cả, người trí thức chết trên trang giấy... - không những không có gì xấu mà còn là việc đáng tự hào.
Tôi chúc cho văn hoá học sẽ trở thành một đối tượng nghề nghiệp mà bạn đam mê, để bạn có thể sống chết vì nó, để mắc bệnh nó và đôi khi có thể “đổ bệnh” vì nó.
TNT