Hàng năm, từ khoảng tháng giêng âm lịch, các loài cá nổi di cư theo mùa từ vùng biển phía Nam theo dòng nước bắt đầu di chuyển ra phía Bắc, ngư dân địa phương gọi là mùa cá lên. Đến cuối tháng tư, cá từ vùng biển phía Bắc chạy vô Nam, ngư dân gọi là mùa cá lại. Trong lúc di chuyển, đàn cá gặp vách núi của đảo hay bán đảo nhô ra biển thì chạy dọc theo gành. Chính từ đặc điểm này mà hàng trăm năm trước, ngư dân thuộc hải phận Khánh Hòa đã phát kiến ra một phương pháp đánh bắt vô cùng độc đáo: nghề lưới đăng. Nghề này không phải di chuyển giàn lưới mà chỉ cắm, đón lõng ở những nơi cố định chờ cá đến. Nó có quy mô lớn, lao động nhiều, sản lượng cao, lại chủ yếu thu được là các loài cá ngon như cá thu, cá bò, cá ngừ...
Theo truyền khẩu của các lão ngư và qua những tài liệu còn lưu giữ được ở địa phương như gia phả, địa bạ, sắc phong, văn tế cúng đình…, cách đây trên 200 năm (vào cuối thời Hậu Lê), những ngư dân gốc Bình Định di cư vào Khánh Hòa lập nghiệp là những tiền bối sáng lập nghề lưới đăng. Đầu tiên là làng chài ở Đầm Môn, Khải Lương nằm trong vịnh Vân Phong (nay thuộc huyện Vạn Ninh), bắc Khánh Hòa. Một nhóm ngư dân khác đến vùng đông nam đảo Hòn Tre lập làng Bích Đầm (nay thuộc phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang). Một nhóm khác định cư tại thôn Phường Củi, bên ngư cảng Bến Cá sầm uất một thời (nay thuộc phường Phương Sài, TP. Nha Trang). Hai nhóm sau này là tiền bối của những sở đầm đăng tại vùng biển nam Khánh Hòa.
Các hào lão có uy tín tại thôn Khải Lương đã kể về nguồn gốc các đầm đăng tại hải phận Vạn Ninh như sau:
Cách đây trên hai thế kỷ, trên đường di cư vào Nam tìm địa điểm đóng lưới, những bậc tiền hiền của họ là các ông Hà Văn Thị, Nguyễn Văn Phú, Phạm Văn Chánh, Huỳnh Văn Túc vốn là ngư phủ ở Phường Mới (Tam Quan, Bình Định) đã đến vùng Đầm Môn, Bảy Giếng, Ninh Đảo, Điệp Sơn. Đây là các đảo lớn nhỏ nằm trong vịnh Vân Phong. Khi thấy phong cảnh kỳ thú, cá chạy dày thấy rõ từng đàn... thì họ đã dừng lại lập làng, lập bến, khai phá đầm đăng.
Đầu tiên, các ông đã lập làng Khải Lương và khai thác sở đầm tại phía đông nam bán đảo, đặt tên đầm Tiểu Cảng - Suối Châu. Thôn Khải Lương thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, cách bến cảng thị trấn Vạn Giã khoảng hơn hai giờ đi đò. Đó là một trong những làng chài hành nghề lưới đăng đầu tiên ở Khánh Hòa. Trước đây, hầu hết người dân trên đảo sinh sống chủ yếu bằng nghề lưới đăng đánh bắt cá thu, cá ngừ. Nay nguồn cá ngày một ít nên đa số dân làng đã chuyển sang nghề nuôi tôm hùm lồng xuất khẩu.
Thôn Khải Lương xưa còn có tục danh là Bảy Giếng - “Có chồng Bảy Giếng được ăn miếng cá thu”- sau này thường bị đọc sai, chép sai thành Bãi Giếng. Người Vạn Giã vẫn còn lưu truyền câu ca:
Có chồng Bảy Giếng được nhờ
Ngày thời chắp bả, tối đánh cờ hơn con
Không lo chi tiền hết gạo còn
Thuyền về tới bến xách con rau dài
Cất tiếng kêu bớ gã lái hai
Lại đây em gởi con rau dài cho anh.
(Chắp bả là đan lưới, vá lưới; cờ hơn con là loại cờ tam cúc, quân cờ làm bằng sừng trâu hoặc bằng gỗ quý, ai đánh được nhiều quân hơn thì thắng; rau: tiếng nghề đăng chỉ chung các loại cá).
Theo các bô lão ở địa phương, sở dĩ làng có tên Bảy Giếng là vì từ thuở mới đến ngụ cư trên đảo, việc cần thiết là họ phải tìm nơi đào giếng. Với nguồn nước ngọt khó tìm, dân cư ngày một đông, họ lần lượt đào cả thảy 7 cái giếng: giếng Chùa, giếng Vĩnh, giếng Tràu, giếng Ông Bành, giếng Ông Hộ, giếng Ông Do, giếng Bà Ất. Con số 7 này đã dừng lại mãi để về sau trở thành tên gọi quen thuộc. Tên giếng được đặt theo tên người đào hoặc ở gần nhà người có giếng. Ví dụ như giếng Ông Hộ là giếng của ông bá hộ Hà Thị, người lập nghiệp đầm đăng đầu tiên ở đây. Hoặc giếng Tràu có tên này là vì lòng giếng có con cá tràu to. Đến nay, hầu như tất cả các giếng đều còn mạch nước, chỉ trừ giếng Bà Ất đã thành giếng cạn. Giếng Chùa là giếng có nước ngọt nhất và mạch nước tốt nhất nay trở thành giếng làng được nhiều bà con sử dụng.
Sau nữa, có hai anh em ông Văn Bá Tàng, Văn Bá Điểm đến đăng lưới và khai thác tại hai địa điểm khác ở hướng nam đảo Hòn Lớn: một là Nhĩ Phong - Diêu Chử, tục gọi Bãi Dầm ; hai là Vĩnh Trích - Đá Dựng, tục gọi Bãi Ván.
Nói đến lớp tiền bối nghề đầm đăng ở Vạn Ninh, ngư dân ở đây vẫn thường nhắc đến tên các ông Hà Thị, Hồ Thuần, Xã Phùi, Xã Nghệ… và xem họ như những ông tổ nghề đăng Vạn Giã. Ban đầu, họ là những người đi bạn, tức là đi làm công cho các chủ lưới Bình Định. Dần dà, bước lên làm nghiệp chủ. Sau đời các ông Hà Thị, Hồ Thuần là các ông Trần Lộc, ông Hường Cát. Kế tiếp là các ông Lê Hữu Tặng, ông Xoài, cụ Bảy Tú, ông Năm Quảng... Các vị ấy tuy đã qua đời từ lâu nhưng con cháu đến nay vẫn còn nối nghiệp đầm đăng, kéo neo tát nước.
Kế đến làng đảo ở Vạn Ninh, cách đất liền chừng 15 hải lý về phía đông, trong số gần chục làng đảo của thành phố Nha Trang, Bích Đầm là làng đảo nằm xa bờ nhất. Làng nằm trên một doi đất phía tây núi Hồng thuộc đảo Hòn Tre. Doi đất này bọc lấy một đầm nước quanh năm trong xanh như ngọc bích. Đây là vùng biển nổi tiếng quy tụ nhiều cá nhất Khánh Hòa. Người dân kể rằng: ngày xưa, cá về trong đầm nhiều đến nỗi từ chỗ cao nhất trên đảo là ngọn hải đăng nhìn xuống cũng thấy được từng luồng cá đi. Làng Bích Đầm - hiện nay là một khóm dân cư của phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang - là một trong những làng biển chuyên nghề lưới đăng lâu đời nhất ở Khánh Hòa. Theo gia phả, dòng họ Trương là tiền hiền làng Bích Đầm. Vào khoảng đầu đời Gia Long, cụ tổ đời thứ 2 của dòng họ là ông Trương Văn Cỏi và mẹ là Nguyễn Thị Mau quê quán ở Hưng Thạnh, Bình Định đã di cư vào sinh sống tại thôn Phường Củi, tỉnh Khánh Hòa. Sau đó ông Cỏi theo vợ là bà Phạm Thị Vơi đưa gia đình ra định cư ở đảo Bích Đầm - lúc bấy giờ còn tên tục là xứ Đầm Môn Bãi Tre - sinh sống chủ yếu bằng nghề khai thác đầm đăng.
Đến đời Tự Đức, làng có tên trong sổ bộ là thôn Bích Đàm thuộc tổng Xương Hà, huyện Vĩnh Xương, phủ Diên Khánh. Từ đó, những đầm đăng quanh Hòn Lớn, Hòn Tre được đem ra khoán lãnh. Mỗi sở đầm lớn nhỏ đóng thuế từ hai, ba chục đến trên cả trăm quan. Cụ Cỏi không có tiền nộp mới tìm ra đầm mới là Hòn Xưởng. Luật lệ thời đó cho phép người có công khai phá đầm mới được quyền khai thác và hưởng trọn lợi tức trong ba năm đầu, sau đó đầm được sung công. Con cháu cụ Cỏi có công khai phá đầm Hòn Mun, sau lại tìm thêm được đầm Thạch Dự - Bút Chử. Cũng chính dòng họ này đã khai phá các sở đầm Mai Thọ, Lỗ Trại, Chính Đầm và Phụ Đầm.
Xưa kia từng là một ngư cảng nhộn nhịp và phồn thịnh, bến Trường Cá (thường gọi tắt là Bến Cá) được coi là một trong những nơi xuất phát nghề đầm đăng của Nha Trang. Hiện nay, ỏ phường Phương Sài, TP. Nha Trang vẫn còn bảo lưu địa danh này. Những cư dân lâu đời của Phương Sài vẫn còn nhớ về nghề truyền thống của địa phương. Trong tâm trí, những người cao tuổi vẫn còn in đậm hình ảnh của những bạn chài áo đen sờn rách ngồi dọc theo con đường Phường Củi (nay là đường Phan Đình Giót) đập vỏ dừa, vỏ mấu rồi se, đan, kéo sợi... để làm ra những tấm lưới đăng nặng nề, thô mộc. Hay cảnh nhộn nhịp ở bến Trường Cá mỗi khi có thuyền đăng chở cá vào bờ.
Theo gia phả Mai tộc, dưới thời Tự Đức, ông Mai Thiên Tải là cháu bốn đời ông Mai Xuân Thông, cao tổ họ Mai ở Khánh Hòa, về định cư ở thôn Phường Củi. Nhận thấy người dân nơi đây ăn ở có nhân đức, địa thế vùng này thuận lợi cho việc khuếch trương ngư nghiệp, ông đã bỏ tiền mua sắm ghe thuyền, ngư cụ, chiêu mộ lưu dân có nghề biển gốc ở Phường Mới (Bình Định), tổ chức đánh bắt xa bờ, phát triển nghề đầm đăng. Ông còn xin đổi tên thôn Phường Củi thành Phương Sài. Ông đã góp phần giúp cho đời sống nhân dân địa phương ngày càng ấm no, thịnh vượng, đúng như lời tự bạch của ông trong bài thơ dặn dò con cháu mà bà con Mai tộc đều thuộc:
Trải bốn đời mới đến ta
Chọn nơi Phường Củi làm nhà định cư
Mộ dân chúng làm ngư nghiệp nghệ
Qua nhiều năm sinh kế đông, giàu
Đội ơn đức Phật trên đầu
Đình, chùa xây dựng hai đầu hai ngôi
Đem công của tài bồi vững chắc
Cải thôn danh đặt hiệu Phương Sài
Có sắc tứ, có kim bài
Ơn trên tưởng thưởng khen người có công
Sau khi ông mất, dân làng đồng lập hội ước phụng thờ ông tại đình Phương Sài như một trong những bậc tiền hiền của địa phương.
Dấu vết của nghề đăng Phương Sài không chỉ được phản ánh qua địa danh bến Trường Cá mà còn được bảo lưu qua ngôi miếu thờ Ông Nam Hải tại khóm Phường Củi Đông với tên gọi là miếu Ngư Nghệ Công Trường.
Đây là một ngôi miếu nhỏ tọa lạc tại bến Trường Cá, mặt tiền quay về hướng đông bắc, nhìn ra sông Ngọc Hội (một nhánh nhỏ của sông Cái). Miếu nằm cách cầu Hộ (cây cầu nhỏ nối hai phường Phương Sài và Ngọc Hiệp) khoảng 100 mét về hướng đông nam.
Ngày xưa, bến Trường Cá vừa sâu, vừa rộng, thuyền cá, thuyền buôn ra vào tấp nập. Sinh hoạt trên bến bãi nhộn nhịp suốt ngày đêm. Mỗi khi có thuyền cá từ khơi về đều có hiệu lệnh trống báo cho chủ đầm đăng và người mua biết.
Khi nghề đánh bắt xa bờ được phát triển, để làm nơi cho ngư dân cầu xin, van vái trước khi xuất hành ra sông, biển, ngư dân đã xây dựng nên Miếu Ngư Nghệ Công Trường. Miếu này lúc đầu có tên là Nghệ Võng Công Trường và có lẽ được lập vào đời vua Tự Đức.
Đến đời vua Thành Thái thứ 9 (1897), miếu được sửa chữa khang trang làm nơi thờ phụng Ông Nam Hải. Ông được ngư dân tôn là thần cứu tinh của họ mỗi khi có gió to, sóng lớn. Miếu đã được triều đình ban cho 2 sắc phong phụng sự Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Chi Thần vào đời vua Duy Tân thứ 5 (1911) và đời vua Khải Định thứ 9 (1924).
Năm 1960, do bị xuống cấp trầm trọng, miếu đã được các chủ đầm đăng, ngư dân và hào lão địa phương đóng góp trùng tu, xây dựng. Hiện nay, mặc dù nghề đầm đăng của Phương Sài không còn nữa nhưng miếu vẫn được nhân dân địa phương bảo quản và hương khói quanh năm. Hằng năm, cứ vào ngày 16/3 âm lịch, tại ngôi miếu nhỏ này, ngư dân Phương Sài đều tổ chức cúng tế Ông Nam Hải.
Để đánh được các loại cá nổi như cá thu, cá bò, cá ngừ, họ đã khổ công nghiên cứu chiều hướng xê dịch của các loại cá này từ Nam ra Bắc và ngược lại. Vì họ nhận thấy rằng, khi ngang qua hải phận Khánh Hòa, đàn cá thường kéo từng đàn đi dọc theo chân các gành đảo trong lộng nên họ đã nghĩ ra phương pháp chặn bắt luồng cá tại những nơi cố định mà không cần di chuyển giàn lưới như những nghề khác. Cách thức này đã đạt kết quả rất khả quan.
Các cụ tổ và nhiều thế hệ con cháu, ngư dân tại địa phương còn dày công nghiên cứu, khám phá ra nhiều sở đầm nước sâu, xa vịnh. Với sản lượng cá lớn, họ đã phát triển nghề lưới đăng thành đại hải nghệ một thời có năng suất và lợi tức cao nhất trong các ngành ngư nghiệp ở Khánh Hòa.
Trước khi có nghề lưới đăng, ngày xưa, người dân sống ở vùng sông nước đã biết sử dụng một công cụ đánh bắt cổ truyền gọi là đăng. Những nẹp tre được đan thành từng tấm như tấm sáo chắn ngang dòng nước để ngăn, đón cá. Có lẽ từ loại ngư cụ thô sơ này mà ngư dân Khánh Hòa đã sáng tạo ra giàn lưới đăng sau này với tính năng, quy mô và hiệu quả đánh bắt cao hơn rất nhiều.
Bước đầu nghề đăng có ngư cụ hết sức thô sơ. Lưới đăng đan bằng xơ dừa hoặc sợi dây mấu trên rừng. Neo bằng đá hoặc gỗ. Từ lưới đến dây, phao ganh, neo chằng..., tất cả đều làm bằng vật liệu tự tạo nên không được bền chắc, mỗi mùa chỉ dùng được đôi ba tháng. Dần dần, khi nghề đăng phát triển lớn mạnh trên nền tảng kinh nghiệm cổ truyền, các phương tiện và phương pháp đánh bắt từng bước được cải tiến và hoàn thiện. Ví dụ như: ghe thuyền được đóng bằng gỗ tốt, có gắn động cơ, lưới đan bằng sợi ni lông, ống phao bằng nhựa, dây neo cố định lưới bằng cáp... Sự cải tiến đó đã đem lại nhiều lợi ích to lớn cho ngư dân.
Phương tiện hành nghề lưới đăng gồm có:
- 1 thuyền đăng + 1 thuyền neo lo việc thả lưới, kéo lưới.
- 1 xuồng sai dùng để chỉnh neo, sửa nạp và đi lại liên lạc.
- 1 đến 2 ghe phiên lo việc chuyên chở cá về bến.
- 1 giàn lưới đăng gồm nhiều tấm lưới kết vào nhau là lưới lưng (còn gọi là lưới đàn), lưới rọ, lưới tráng, lưới hom, lưới bửng để vây chặn cá.
- 1 giàn lưới rút để sẵn trên thuyền. Khi người coi nước ôm ống phao, đeo kính lặn quan sát tình hình thấy cá đã vô đầy rọ thì hô: “Xô lưới”, tức thì trên thuyền cho đóng lưới bửng và thả lưới rút xuống để bắt.
- Và hàng tấn ngư cụ khác như bè, phao, neo, dây, hòn chì...
Kinh nghiệm truyền đời và cũng là bí quyết thành công của nghề đăng, đó là việc xây vàng lưới rút (lưu ý: các cụ cao niên dùng từ vàng chứ không phải là giàn). Các mẹo về kỹ thuật này, ngay tự ngày xưa, chỉ truyền lại trong gia đình, họ tộc. Vì thế, có rất nhiều người thâm niên hàng chục năm bám nghề đầm đăng mà không biết một chút gì về cách thức xây vàng lưới rút. Mặc dù, họ vẫn được huấn luyện, học nghề, chỉ dẫn cụ thể, nhưng chỉ là cách thao tác lao động bình thường mà thôi. Hơn nữa, việc lặn xuống dưới độ sâu gần cả chục sải lưới, lại còn phải biết coi ngó đường nước chảy là việc không phải ai cũng có thể làm được.
Trong nghề đăng, công đoạn giăng lưới là khâu rất quan trọng vì nó quyết định thắng lợi hay thất bại trong vụ mùa. Lưới đăng là lưới đứng, đóng tại một địa điểm cố định trong suốt mùa cá. Vùng biển giăng lưới đăng gọi là sở đầm hoặc đầm đăng. Những đầm đăng này là kết quả của bao thế hệ ngư dân đã nhiều năm theo dõi và đúc rút kinh nghiệm để tìm ra các vị trí đặt lưới đánh bắt cá hiệu quả.
Tùy theo sở đầm lớn hay nhỏ, một giàn lưới đăng cùng các phụ kiện, dây chạc... thường nặng cỡ trên dưới chục tấn. Người ta phải kết bè, trải nạp trên mặt, giằng chì dưới đáy và thả nhiều neo để giữ thì giàn lưới mới đứng vững. Tại địa điểm cố định của sở đầm, giàn lưới lưng - còn gọi là lưới đàn - được giăng từ chỗ kết gang (hòn đá nơi gành) ra đến thuyền đăng nhằm chặn đường cá đi. Kế đó dùng lưới rọ, lưới tráng kéo từ thuyền đăng vòng đến bè cái, bè dọc, lại từ bè dọc kéo lưới hom đi ngược về phía đảo. Mặt khác, từ neo thứ mười phía lưới đàn đặt một giàn lưới bửng kéo chênh chếch theo một góc hình tam giác thẳng đến đầu lưới hom, người ta có chừa một khoảng trống cho cá đi vào vòng rọ (chuồng lưới).
Vào mùa cá lên, đàn cá đi nhanh và xa gành, lưới đàn thường dài trên dưới 500 mét (gần gấp đôi mùa cá lại). Hệ thống các vị trí lưới đăng phải hướng từ nam ra bắc. Đến mùa cá lại, đàn cá di chuyển chậm và dựa sát gành nên lưới đàn ngắn, chỉ bằng khoảng từ một nửa đến hai phần ba chiều dài phần lưới mùa cá lên.
Hệ thống các vị trí lưới đăng phải hướng từ bắc vào nam. Đàn cá chạy dọc chân gành đảo, thấy lưới thì khựng lại, người ta xoay quanh giằng rồi từ từ kéo ra. Cá chạy gần như song song với giàn lưới đàn. Kế đó, cá gặp giàn lưới bửng và lưới hom bố trí như một cái hom hình chữ Y hoa thắt lại ở đáy. Một người coi nước lội phía ngoài chuồng lưới để canh chừng hướng cá di chuyển, khi thấy cá đã vào rọ thì báo hiệu cho trên thuyền đóng cửa bửng nhốt cá lại. Đàn cá bị kẹt trong chuồng cứ chạy xoay vòng và tập trung vào giữa. Khi đó, thuyền đăng và thuyền neo mới thả lưới rút xuống. Đến lúc bắt đầu nhổ lưới thì cả bốn mặt đều được bao kín. Hai thuyền từ từ xáp lại gần nhau, vòng lưới cứ hẹp dần, cá dồn hết xuống đáy. Gặp đàn cá dày, người ta phải gạn lên từ từ: các loại cá dài thì dùng móc câu kéo lên, cá tròn thì dùng vợt xúc lên. Sau khi xúc hết đàn cá trong rọ rồi, người ta mới mở cửa bửng ra. Cứ thế tiếp tục đánh các giác lưới khác trong ngày.
Vòng rọ lưới đăng đã được người xưa dày công nghiên cứu, tính toán, bố trí như một trận đồ vô cùng ảo diệu: lưới đàn - vòng rọ - neo cổ - neo cái - neo dọc - lưới tráng - lưới bửng - lưới hom, lại có cả cửa mở, khóa đóng, cùng với những phương án đánh bắt hết sức uyển chuyển, linh hoạt. Tất cả đều nhằm mục đích làm cho đàn cá một khi đã vào rọ rồi thì không thể nào ra, chỉ còn biết dựa theo bóng lưới đàn, bơi xoay tròn quanh vòng rọ, chờ người ta đến bắt.
Ngày xưa biển còn nhiều cá, cứ độ một giờ đồng hồ là kéo một giác lưới. Mỗi ngày có thể đánh từ 5 đến 6 giác lưới, tùy theo cá chạy dày hay ít. Khi nhổ lưới, chỉ dỡ lưới rút mà thôi, còn lưới bửng nằm trong rọ cả ngày. Đến khoảng 5, 6 giờ chiều thì nghỉ đánh bắt. Sau giờ đó, lưới được rút lên thuyền đăng để phiên khác chuẩn bị cho ngày hôm sau thả xuống. Cứ thế mà thay phiên đánh bắt suốt cả mùa vụ.
So với một số nghề biển khác, lưới đăng độc đáo ở chỗ, nó không có một phương án đánh bắt duy nhất, cứng nhắc. Mà tùy theo đường nước, người chèo dọc (người đội trưởng chỉ huy trực tiếp ngoài biển) phải đưa ra phương án cụ thể cho từng giác lưới.
Về mặt kỹ thuật, khi đánh một giác lưới, ngư dân thường áp dụng hai phương pháp là lót thiệt và lót lui. Tùy theo mùa cá, tùy theo con nước, tùy theo vị trí đặc biệt của từng sở đầm đăng và tùy theo kinh nghiệm của người chèo dọc mà người ta quyết định sử dụng phương pháp nào để giác lưới đạt hiệu quả cao nhất.
Lao động trong nghề lưới đăng được tổ chức và phân công như sau:
- Nghiệp chủ: người hay nhóm người trúng thầu khai thác một sở đầm nhất định, ngày xưa gọi là chủ đầm, nay là chủ nhiệm hoặc Ban Chủ nhiệm hợp tác xã.
- Đại diện: người thay mặt nghiệp chủ điều hành sản xuất, nay là Phó Chủ nhiệm kỹ thuật của hợp tác xã.
- Biện: thư ký, có nhiệm vụ ghi chép, tính toán, quản lý sổ sách. Làm việc trên thuyền có thủy biện hoặc biện nước, trên bờ có biện bán và biện biên. Hợp tác xã lưới đăng có ban Quản trị làm việc ở đất liền gọi là ban biện bờ; có ban biện nước làm việc trên thuyền như lo việc hồ sơ giấy tờ nhập xuất, trông coi quán xuyến việc đánh bắt, đôn đốc theo dõi số lượng, phân loại cá...
- Thủ quỹ: người quản lý tiền bạc.
- Kiểm ngư: 1 hoặc 2 người, lo việc đếm cá, cân cá.
- Chèo dọc: 2 người, chỉ huy đánh bắt trên biển, nay gọi là Đội trưởng (bên thuyền đăng) hoặc Đội phó (bên thuyền neo).
- Bạn lưới hay bạn trên: thường từ 20 - 28 người, là thuyền viên kéo neo, kéo lưới. Bạn trên chia đều cho hai thuyền, bên đăng bao giờ cũng hơn bên neo 2 người (thư ký và kiểm ngư). Cũng có khi bạn trên được điều động cân đối cả hai bên (thư ký và kiểm ngư cũng là bạn trên).
- Bạn nằm thuyền: 2 người, mỗi thuyền một người, lo neo nạp, tát nước, nấu cơm, nhảy xuống nước kết giải...
- Lái phiên: 2 người, lái và phụ lái ghe phiên, đưa tiếp phẩm, nước ngọt, chở cá vô, gọi gọn là đi phiên vô cá.
Ngoài số lao động thường xuyên cho việc đánh bắt, trên thuyền thường có thêm vài người qua lồ là những người xin đi theo lao động trong thời gian rảnh rỗi hoặc gặp dịp. Số người này không được tính công lương mà chỉ được nhận cá, muối ăn.
Đối tượng đánh bắt của nghề lưới đăng là các loài cá nổi di cư theo mùa hoặc tìm mồi. Số loài trong mỗi giác lưới rất ít, có khi chỉ một vài loài như cá thu, cá ngừ... nhưng đây là các loại cá ngon và có giá trị kinh tế cao.
Lưới đăng gọi tất cả các loại cá thu là rau dài, tất cả các loài cá bò, cá ngừ là rau tròn. Cá thu thường họp thành đàn lớn và di cư. Có mẻ lưới đăng bắt được hàng trăm con có kích cỡ rất giống nhau. Cá ngừ cũng vậy. Trong đàn thường bao gồm một số loài khác nhau như: ngừ ồ, ngừ chù, ngừ chấm, ngừ bò, ngừ sọc dưa. Đây là các loài cá ngừ phân bố theo từng địa phương. Thỉnh thoảng, người ta cũng gặp trong lưới đăng nhiều loài cá sống ở đại dương như cá ngừ vây vàng, cá thu ngàng, cá gòn, cá cờ...
Cá lưới đăng hầu hết là cá còn sống hay cá “tươi dong” nên rất ngon. Vào tháng giêng, tháng hai, cá thu rất to con, nặng cân, thường từ 7-10 kg một con. Cá biệt có nhiều con nặng hơn cả chục ký, dân biển gọi những con cá lớn này là “cá thu đại” hay là “cá thu kịch”. Đến tháng tư, tháng năm, con cá thu nhẹ cân hơn, thường từ 5 kg trở lên nhưng cá chạy rất dày đàn, trong dân gian thường gọi là “một mẹ hai con”. Đầm đăng được mùa “biển no”, một giác lưới thu hoạch cả “rau thiên” chứ không phải “rau chục”.
Nghề đầm đăng tuy là nghề “bọt nước” nhưng đã có nhiều cơ ngơi, sự nghiệp bước lên từ những con “rau dài”, “rau tròn”. Từ con cá thu, cá ngừ, xóm làng sung túc, nhà cửa khang trang, con cái học hành đến nơi đến chốn. Đây là nghề gắn với biển giã nhưng thu nhập thì không “giả” chút nào.
Ngày xưa, phương tiện di chuyển đi lại còn hạn chế nên cá được đánh bắt từ lưới đăng cũng chỉ tiêu thụ trong làng và trong vùng phụ cận. Các bến cá cũng có cách sinh hoạt rất độc đáo. Tất cả các ghe phiên chở cá khai thác được từ các đầm đăng đều chạy về bến Phường Củi. Mỗi chiếc ghe đều có một cái trống chầu để đánh từng hồi báo hiệu cá về cho dân làng biết đến mua cá, chia cá đem đi các chợ bán. Mùa cá rộ, có thời điểm bốn năm chiếc ghe phiên chở cá về cùng một lúc. Thế là trống trên các ghe thi nhau gióng liên hồi. Nghe tiếng trống giục, dân làng chạy đến bến cá. Quang cảnh lúc này vô cùng nhộn nhịp. Trên các ghe thuyền, vang vang tiếng hô của người lái phiên vội vàng chuyển cá bán cho dân làng: “Hai chục dằn di”, “Ba lầm dài”, “Một thiên tròn”... Cá về bến được phân loại theo giống (ví dụ như, cá thu ngàng, thu ngừ, thu hủ, thu mùa, thu ảo...) và kích thước (thiên cố đại, thị đại, dài kịch, dài đại, dài trung, dài hàng, dài tiểu). Ngày nay, cá thu chỉ chia ra thành hai loại mà thôi: cá xuất khẩu, cá nội địa (thường là cá không đủ tiêu chuẩn).
Cá lưới đăng đi phiên mỗi ngày 2 chuyến: chuyến chính vô bờ lúc 2 - 3 giờ chiều, chuyến phụ vô bờ lúc 7 - 8 giờ tối. Mỗi ghe phiên chở cá về bến đều có: phiếu vô cá của biện nước, có chữ ký của kiểm ngư và đội trưởng ở sở đầm đăng. Ngày nay, cá lưới đăng không còn được bán theo kiểu đánh trống để bà con dân làng biết đến mua mà bán theo hợp đồng đã ký kết trước vụ cá. Các sở đầm phải hoàn thành hợp đồng xong mới được bán tự do ra thị trường bên ngoài.
Lưới đăng làm theo mùa vụ. Ngày xưa, thường vào khoảng tháng 11, 12 âm lịch, ngư dân đã lo dọn lưới, mua sắm vật dụng bổ sung, kiểm tra ngư cụ... Đến đầu tháng giêng, vừa ăn Tết xong thì ra quân và đến cuối tháng 5 âm lịch là mãn mùa. Thời điểm ra quân đánh bắt bây giờ cũng trễ hơn: thường vào cuối tháng giêng và kéo dài cho đến hết tháng sáu âm lịch. Sau vụ mùa chính thức, các hợp tác xã nghề cá thường làm thêm một tháng phụ (tháng 7 hoặc qua gần nửa tháng 8 âm lịch). Năm nào, do điều kiện môi trường hoặc do cá theo mồi, cá di cư vào sát bờ thì lưới đăng sẽ thu hoạch được nhiều, ngư dân gọi là biển no (được mùa). Còn ngược lại là biển đói (mất mùa).
Khánh Hòa từ xưa đã có nghề đăng lớn nhất nước. Thời kỳ cực thịnh, toàn tỉnh có gần 40 đầm đăng, phân bố đều khắp từ mũi Đại Lãnh đến vịnh Cam Ranh. Nổi tiếng hơn cả có các đầm đăng Hòn Na ở Vạn Ninh, Hòn Đỏ ở Ninh Hòa và Hòn Nọc ở Nha Trang. Ngày nay, do cá ít, lại ngại vào sát bờ, nên nhiều sở đầm trong tỉnh đã bị bỏ hoang hay không còn khai thác.
Lưới đăng“Làm một ngày, ăn một tháng” là câu cửa miệng của những người dân biển. Hoặc để diễn tả cuộc sống sung túc, ăn nên làm ra của nghề biển truyền thống có độ dày trên 200 năm này ở Khánh Hòa, người ta có câu:
Ai về làm rể lưới đăng
Ăn cơm bát bịt tôm rằn kho tiêu
Với các nghề đánh bắt khác ở biển thì “lưới đi tìm cá”. Trái lại, với nghề đăng thì “cá đi tìm lưới”. Ngày xưa, cứ mỗi giác lưới, ngư dân thu hoạch được cả thiên cá, hàng ngàn con đủ loại quẫy vùng dày đặc. Bắt cá như “vớt gạo, vớt lúa”. Thế mà ngày nay, một giác lưới chưa được 1 lầm (100 con). Một trong những nguyên nhân khiến sản lượng cá của nghề đăng thấp dần là sự gia tăng đánh bắt của các loại nghề đánh bắt khác ở biển như lưới vây, lưới quét, lưới cản… và nằm ngoài các vị trí đặt đăng làm cho cá “ngại” vào bờ. Hệ quả là ở các đầm đăng hiện nay rất ít có cá ngừ, bởi lẽ đây là loại cá ăn nổi trên mặt nước, bị lưới quét làm kinh hoảng. Riêng cá thu là loại cá ăn chìm mà luôn bị vây bắt bởi lưới cản, vì thế chỉ những con nào thoát được mới vào vòng rọ.
Ngoài tình trạng bị bao vây bởi các loại nghề như lưới cản, lưới vây, lưới giã... còn phải kể đến những biến đổi bất thường của thời tiết. Các tháng động tố, động dài, nồm rộ, biển khơi sóng to gió lớn, con cá tìm bờ mà núp, không thể theo đường nước êm mà vào rọ. Mặt khác, biển ngày nay không phải là biển của trên hai trăm năm trước. Đường đi của luồng cá đã có nhiều thay đổi, chuyển dịch theo với sự thay đổi của dòng chảy và tác động của thủy triều. Trong lúc đó, ngư dân vẫn khư khư tuân thủ những phương pháp và kinh nghiệm đánh bắt cổ truyền theo kiểu “lão ngư tri hải” đã dẫn đến tình trạng đầm đăng làm ăn thất thu, rớt hạng là điều không tránh khỏi.
Trong quá khứ, lưới đăng đã từng là một đại hải nghệ, có năng suất và lợi tức cao nhất trong các ngành ngư nghiệp của tỉnh Khánh Hòa. Trải qua lịch sử hơn hai trăm năm hình thành và phát triển, lưới đăng đã trở thành một nghề truyền thống với những nét đặc sắc, các bí quyết, các phương pháp và kỹ thuật riêng biệt trong việc khai thác, đánh bắt. Bên cạnh đó, nghề này còn mang các khía cạnh độc đáo trong sinh hoạt, phong tục tập quán, tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn hóa... Đây là những giá trị văn hóa truyền thống cần được xã hội quan tâm bảo tồn và phát triển.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thụy Anh 1952: Lưới đăng ou madrague vietnamienne dans la region de Khanh-Hoa (Nha-Trang). - Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, N.S, Tome XXVII, No 1, 1er trim.
2. Nguyễn Âu Hồng 1999: Nghề lưới đăng truyền thống ở Khánh Hòa. - Trong sách Văn hóa phi vật thể Khánh Hòa.-Hà Nội: NXB Văn hóa dân tộc.
3. Nhiều tác giả 2003: Nghiên cứu điều tra nghề lưới đăng ở Nha Trang. - Trong Tuyển tập Nghiên cứu biển, Viện Hải dương học Nha Trang, tập XIII.
4. Võ Khoa Châu 2008: Vạn Ninh - Đất và Người. - Nha Trang: Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hòa.
Nguồn: Văn hoá biển đảo Khánh Hoà, NXB Văn hoá, 2012.