Từ lâu, tôi nghe câu ca dao Nam Bộ:
“Mắm trước, đước sau, tràm theo sát.
Sau hàng dừa nước mái nhà ai.”
Nhưng tôi thật sự không “ấn tượng” lắm câu ca dao này so với một số câu ca dao Nam Bộ khác, đại loại như:
“Sương khuya ướt đọng giàn bầu,
Em về Miệt Thứ bỏ sầu cho qua.”
Hay:
“Gió đẩy đưa rau dừa quặn quịu.
Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên.”
Hoặc:
“Ngó lên Sở Thượng thêm buồn.
Muốn châm cội rễ ngặt đường xa xôi.”
Và còn nữa:
“Long Xuyên phút bỗng xa chừng,
Bậu qua Bò Ót, xin đừng thắp nhang”.
Hay:
“Thương em anh phải đi đêm,
Phần do bắt được đánh mềm như dưa.”, v.v..
Ca dao Nam Bộ còn rất nhiều câu hay như thế.[1] Cảm nhận ban đầu khi đọc câu ca dao Nam Bộ “Mắm trước, đước sau, tràm theo sát. Sau hàng dừa nước mái nhà ai.”, tôi thấy thiếu chất văn chương, lại kiểu như “đếm bâng quơ” sao sao ấy! Ngày trước, có lẽ do thiếu thực tế nên tôi cảm nhận câu ca ấy không thật sâu sắc, bởi ca dao gì đọc lên nghe không “mượt mà, trau chuốt”; tưởng như đếm cho vui, nói cho có, không còn ý tưởng gì khác. Bây giờ, nghiệm lại, tôi mới thấy suy nghĩ ban đầu của mình có phần vội vàng, chưa hiểu nhiều về quá trình hình thành vùng đất Nam Bộ nên không “thấm thía” nổi câu ca ấy.
Nam Bộ là vùng đất mới. Mới trong sự hình thành vùng đất trên bình diện tự nhiên; mới trong việc định cư, lập làng, hình thành tổ chức xã hội nữa. Tất nhiên, nói mới trong sự hình thành vùng đất trên bình diện tự nhiên, không có nghĩa chỉ trong vòng vài trăm năm hay năm, bảy thế kỷ trở lại. Dựa trên một số tài liệu khoa học khảo cổ, vùng đất này có tuổi khoảng 5.000 năm, tính từ lúc mực nước biển hạ thấp xuống và dĩ nhiên vùng đất này không ngừng được bồi đắp thêm phù sa bởi những con sông lớn làm thềm bờ biển mỗi ngày đi xa hơn về phía đại dương, khiến vùng đất không ngừng được mở rộng thêm mãi. Con người có mặt sớm ở vùng đất này, như một số nguồn sử liệu Trung Quốc thì họ thuộc vương quốc Phù Nam, trong khoảng 2.000 năm. Do những biến cố lịch sử vương quốc này có những thăng trầm, để rồi nay không còn nữa. Bên cạnh số cư dân bản địa ít ỏi, thưa thớt còn lại, lại thiếu khả năng tổ chức lao động, cư dân Bắc Trung Bộ trong quá trình Nam tiến đã đến đây với nguồn lực lớn, dồi dào, góp công đầu trong việc khai phá vùng đất, thành trù phú, có làng xã. Dần dà dưới sự quản lý triều đình nhà Nguyễn, vùng đất này dần có tổ chức hành chính hẳn hoi.
Đánh giá quá trình mở đất Nam Bộ, người ta đề cao con người. Con người có công khái phá, thuần đất, biến đất thành tài sản, tạo nên của cải vật chất, tinh thần. Sự sung túc ngày hôm nay của vùng đất, rõ ràng là công đóng góp nhiều lớp thế hệ, cả hệ thực vật: “thế hệ cây mắm, cây đước, cây tràm, và các thế hệ tiếp nối: mít, xoài, cam, quýt, v.v.”.
Trên bình diện tự nhiên, quá trình hình thành vùng đất Nam Bộ cũng diễn ra trật tự: mắm, đước, tràm, v.v.. Để được ruộng lúa phì nhiêu, những vườn cây đặc sản, những miệt vườn xanh mát, những phố xá khang trang, cần có một thời nhờ “cây mắm, cây đước, cây tràm” làm nhiệm vụ tiên phong mở đất, giữ đất và thuần đất. Từ đó, người xưa mới khái quát “công trạng” các loài cây này theo thứ tự, như ca dao được truyền miệng:
“Mắm trước, đước sau, tràm theo sát.
Sau hàng dừa nước mái nhà ai.”
Nói không quá, công trạng “ba vị” này với mảnh đất Nam Bộ là đáng kính nể. Mỗi vị đều âm thầm, lặng lẽ, gắn chặt đời mình với bùn đất Phương Nam làm những phần việc kế thừa nhau, trước khi bàn giao cuộc “đất phát” lại cho con người đến định cư khai phá.
Trước là cây Mắm. Cây mắm giữ vai trò tiên phong trong việc lấn biển. Mắm có tên khoa học Avicennia marina. Ở Cà Mau có bốn, năm loài mắm, đó là: mắm trắng, mắm đen, mắm ổi, mắm quăn, v.v..
Tùy loài, cây mắm có thể có đường kính tới 60cm, chiều cao đến 25, 30m. Lá mọc đối hay mọc vòng, thường đơn, đôi khi kép chân vịt hoặc kép lông chim; không lá kèm. Mắm có bông hình sao bốn cánh cân đối, lớn 8 – 10mm, màu vàng tới vàng cam. Độ lớn trái mắm từ 1,5cm đến 3,5cm, trái có hình như trái hạnh nhân, hình trái tim hay hình trái xoài. Trái một hột, mọc mầm trước khi rụng (sinh cây con), như một số loại cây khác trong rừng ngập mặn. Mắm có rễ đất và rễ phổi. Gỗ mắm có thể dùng làm ghe, xuồng, cất nhà, làm củi. Ngày nay, nghiên cứu mắm, người ta dùng mắm cho việc chế biến dược liệu và cung cấp sắc tố cho công nghiệp thuộc da.
Cây mắm có rễ đất và rễ phổi. Rễ phổi có nhiệm vụ hấp thụ dưỡng khí, cứu cánh sinh tồn khi nền đất ngập mặn. Rễ phổi cũng là phương cách thích ứng bảo vệ đất bồi. Mắm lại có trái trước khi rụng đã nẩy mầm cây con. Vì thế, trái rụng chỉ trong một thời gian ngắn là có thể bám đất và phát triển. Chính nhờ hai đặc điểm của mắm: rễ mắm và trái mắm mà mắm có thể nhanh chóng sinh sản, lớn lên và phát triển tốt ở vùng giáp ranh giữa đất và nước. Mắm mọc ngay khi trái rụng xuống nước và bám trụ ở chỗ giữa đất và nước là điều kiện để giữ đất, giúp đất được bồi đấp và lấn dần thêm ra biển, lâu ngày trở thành rừng mắm. Bình Nguyên Lộc khi nói về thế hệ tiên phong đi mở đất, đã dùng hình ảnh “rừng mắm” mà so sánh công trạng của họ. Trong truyện, ông nội thằng Cộc giảng giải cho nó nghe về sự hi sinh cao cả của cây mắm:
“- Bờ biển này mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng, nếu không có rừng mắm mọc trên đất đó cho chắc đất. Một khi kia mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi nó. Rồi sau mấy đời tràm, đất thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
- Ông với lại tía con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là đời tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau.
Đời mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu họ hưởng.”. [2]
Đước là một trong ba nhân vật chính góp phần mở đất Phương Nam. Đước là thế hệ thứ hai, sau mắm để gìn giữ đất Phương Nam. Đước có tên khoa học Rhizophora apiculata Blume. Đước có tới năm loài ở nước ta, trong đó loài đước đôi, đước nhọn là phổ biến nhất. Đước ưa mọc trên đất phù sa cận sinh, nhất là đất bùn mịn, có thủy triều lên xuống định kỳ, nước mặn hoặc lợ, khí hậu ấm áp. Khi đước con bám vào bùn đất đến khi trưởng thành phải mất khoảng 25, 30 năm, độ cao trung bình của đước từ 20 - 25m, đường kính cây đạt khoảng 20 - 30cm. Lá rất cứng, có màng sáp và bóng loáng, có tác dụng phản quang giữ nước.
Các nhà khoa học cho rằng, lá đước có tuyến thải muối giúp đưa được lượng muối thừa ra khỏi cơ thể. Bởi đó, có người gọi đước là “máy lọc nước”, có chức năng biến nước mặn thành nước ngọt. Cây đước độ hai, ba tuổi cho ra hoa trái, mùa ra hoa từ tháng ba đến tháng sáu. Hoa đước cung cấp phấn cho đàn ong làm mật, có giá trị dinh dưỡng rất cao. Bởi đó, rừng đước cũng là nơi ong mật về gác kèo làm ổ. Mùa trái chín từ tháng bảy đến tháng mười hai. Trái đước thon dài như ngón tay, độ chừng 30, 40cm. Trái đước nảy mầm sinh cây con từ lúc còn treo lơ lửng trên cây. Khi rụng xuống có thể cắm ngay vào đất hoặc được sóng biển đẩy trôi dạt khắp nơi, rồi gặp nơi bùn lầy, trái đước trụ lại, rễ non bám vào phù sa. Quá trình bén rễ cũng là quá trình trái đước tự dựng đứng thẳng lên. Đước là loài cây có nhiều giá trị sử dụng: làm cột, xẻ ván, đặc biệt là than đước có giá trị kinh tế rất cao, năng lượng tỏa nhiệt chỉ sau than đá. Ngoài ra, vỏ đước còn có hàm lượng tanin rất cao, chế tạo thuốc nhuộm và công nghiệp làm giấy cao cấp, v.v..
Nét độc đáo của đước cũng chính là bộ rễ và trái đước. Đước có hai loại rễ: Rễ cọc và rễ phụ. Rễ cọc nhỏ, nhưng cắm sâu xuống lòng đất; còn rễ phụ (chang đước) rất lớn, như chân nơm, mọc tua tủa quanh gốc, bám sâu vào lòng đất nhão. Chính vì vậy cây đước một mặt luôn đứng vững trên đất sình lầy, không ngại gió bão rung chuyển; mặt khác, nó như mái nhà chung cho cá, tôm, cua tới trú ngụ, sinh sản. Trái đước trưởng thành có sự chuẩn bị trước để “vào đời”. Nó vốn là “thực vật thai sinh” (cây đẻ con) nên khi tiếp xúc đất và nước là thích nghi được ngay; nhờ đó, đước sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Cây đước khi đã mọc thành rừng không có loại cây nào có thể sống cộng cư được, nên rừng đước thường có lãnh địa riêng.
Bộ chang đước là “đôi chân” giúp loài thực vật này còn có một khả năng “độc nhất vô nhị” trong các loài thực vật; đó là điều chúng ta không thể ngờ chúng có thể di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Hoạt động vận hành bộ chang đước được lý giải như sau. Theo các nhà khoa học, cây càng lớn, những nhánh thấp, nhánh nhiều tuổi, càng mọc rễ nhiều. Dưới sức nặng của bản thân và dưới tác động tự nhiên: gió, thủy triều, địa hình, v.v., các nhánh này sẽ nứt tách ra khỏi thân. Không được tiếp nhựa sống cây mẹ, cũng không sao, vì bản thân chúng có thể nhận được trực tiếp từ lòng đất nguồn dinh dưỡng, nhờ vào những chiếc rễ riêng này. Do bị tổn thương, phần ngoài cùng của nhánh rồi cũng sẽ khô chết; mặc dù trước đó, nó cũng kịp “ra riêng”, tạo thành một thành viên mới, sống độc lập như cây đước sinh ra từ hạt. Nhưng khác với cây chính, cây này có thể chuyển động. Trong suốt thời gian tăng trưởng, nó tạo ra những rễ mới hướng về trước, bất chấp phần phía sau chết đi và tự hủy. Trong vòng một vài năm, loài thực vật bất động này đi được một khoảng cách khó tin: khoảng vài chục cm và chỉ dừng lại khi bị một cây khác cản đường hay đã đi quá xa bờ, rễ không tiếp đất được.
Đước mang lại nhiều nguồn lợi hơn cho con người, không chỉ từ bản thân cây đước mà từ rừng đước, nơi chim về, ong đến làm tổ, dưới rễ là nơi dẫn dụ thủy sản: cá, tôm, cua, v.v.. Cùng với mắm, cả hai góp phần tạo cho rừng những sản vật phong phú. Rừng đước không những bảo vệ bờ biển khỏi bị xâm thực; trái lại, còn mở rộng bờ biển vì đước cũng là loại cây lấn biển. Đước có thể giữ được chất lắng đọng từ trong nước biển, cùng với thực vật chết: cây khô, lá rụng và phân chim, lâu ngày sẽ thành khu đất mới cho tràm. Rừng đước còn là nơi giúp cân bằng sinh thái bờ biển. Đước lại còn một phẩm chất tốt đẹp khác là tính đoàn kết, đồng đội. Trong những năm tháng chiến tranh, rừng đước đã đội biết bao nhiêu bom đạn, nhưng chúng vẫn không khuất phục; trái lại, vẫn xanh tươi mơn mởn.
Trong văn chương, đước được ví như người kiên trung, bất khuất, không đầu hàng số phận đen đủi, không chịu thua cuộc đời nghiệt ngã. Mặt khác trong khoa học, nhà nghiên cứu sinh thái Daniel Donato thuộc Trạm Nghiên cứu Tây Nam Thái Bình Dương ở Hilo (Hawaii), cho rằng: “Loài đước từ lâu đã được biết đến như những hệ sinh thái vô cùng hữu ích, nơi hấp thụ cácbon một cách nhanh chóng. Song đến tận ngày nay, người ta vẫn chưa ước tính được con số cụ thể có bao nhiêu cácbon được lưu trữ trong hệ sinh thái này. Đây là điều cần được tính toán bởi khi xảy ra thay đổi trong việc sử dụng đất, rất nhiều cácbon trong các khu dự trữ cácbon đang tồn tại có thể bị thoát ra và hòa vào bầu khí quyển.”. Và từ đó, ông đi đến kiến nghị: “Đưa loài đước trở thành “ứng cử viên” cho các chương trình giảm nhẹ biến đổi khí hậu, bằng cách giảm tỷ lệ chặt phá rừng đước tại các khu vực phù hợp với mục tiêu quản lý địa phương.”. [3]
Tràm thuộc hế hệ thứ ba trong nhóm cây lấn biển. Không chỉ có Cà Mau, Kiên Giang là lãnh địa của tràm, Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, v.v., cũng được xem là quê hương của loài cây này. Tràm Việt Nam có tên khoa học Melaleuca leucadendra. Dân gian gọi “tràm nước”. Họ nhà tràm cũng có vô số loài, nhưng có lẽ tràm nước đã tạo thành rừng đặc thù Đồng bằng sông Cửu Long.
Rừng U Minh bao gồm U Minh Thượng và U Minh Hạ được trải rộng mênh mông từ Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, Cà Mau đến sông Cái Lớn của hai huyện An Biên, Vĩnh Thuận, Rạch Giá. Hai U Minh, quê hương của cây tràm bị phân cách bởi sông Cái Tàu và dòng sông Trẹm, đã tạo một không gian quyến rủ, khiến ai đó đã viết “Bên dòng sông Trẹm”, tôi có biết ngày còn nhỏ. Nơi đây, cây tràm mọc khắp nơi tạo cho thiên nhiên nét hoang sơ và huyền bí. Xen vào đó, một số loại cây thân mộc, lẫn thân thảo hoang dại cùng chung sống với tràm. Suốt ngày rừng U Minh luôn tối. Cây tràm nhỏ thấp hơn cây đước. Vỏ cây tràm xốp, trắng, ngả vàng, lớp vỏ này dễ tróc, mềm, mịn, dẫn lửa. Tùy theo loài, chúng có thể là cây bụi hay cây thân gỗ, cây thân gỗ lâu năm thì gỗ bên trong rất rắn chắc. Trước đây, tràm được dùng làm cừ phổ biến trong xây dựng vì gỗ nó chịu đựng được rất lâu trong điều kiện ngập nước. Thân nó cũng có ích cho công nghiệp giấy. Thân cây tràm lớn có thể cao đến 20m. Tán lá tràm thưa, lá thon nhỏ. Cây tràm có thể sống 25 tới 30 năm. Lúc này, nó thành cây cổ thụ, gỗ có thể dùng làm nhà. Bông tràm mọc thành cụm dày đặc, bông tạo thành một chuỗi dài, mỗi bông có những cánh nhỏ với một chùm nhụy, thường có màu trắng. Trái là dạng nang nhỏ chứa nhiều hạt. Mùa khô, trái tràm rụng xuống đất và đến mùa mưa, cây tràm con đã lên xanh tốt. Hạt tràm có khả năng tồn tại lâu, chúng có thể nằm lại trong đất cháy nhiều năm sau, khi có điều kiện thuận lợi là có thể nảy mầm thành cây con.
Vào mùa tràm trổ bông, rừng không còn âm u mà trở nên sáng và sôi động hơn nhiều, do sắc màu và mùi hương bông tràm mang lại; cùng tiếng đập cánh ong bay nhộn nhịp để “đi bông”[4]. Hương tràm có mùi hương dịu như hương sen, pha lẫn với hương mật ong; vì thế, ong rất thích làm tổ trong rừng tràm. Hai mùi hương này đã hòa quyện với nhau tạo thành “hương rừng” đặc biệt của Cà Mau. Sơn Nam đã có lần miêu tả chi tiết trong tác phẩm “Hương rừng Cà Mau”:
“Hương rừng ngào ngạt, mùi hương xa lạ nhưng rất quen thuộc. Thằng Kìm hít mạnh để hửi cho kỹ, để nhớ rõ nhưng nhớ mãi không ra. Chợt ngẩn đầu lên, nó trố mắt. Rừng cơ hồ không còn chiếc lá nào cả! Trên hàng vạn nhánh to nhánh nhỏ, bàn tay thần nào rắc lấm tấm hàng hà sa số đợt bông gòn, không phải riêng trước mặt mà khắp các tứ phía. Rừng sáng lạng, ai dám nói rừng là âm u? Bông kết oằn sai, mịn màng, trắng tuyết; đài, cánh đâu không thấy chỉ thấy toàn là nhụy ngọt.
Nó buột miệng:
- Rừng cây gì vậy? Chú Tư.
Tư Lập day lại, cười vang:
- Thằng quỷ! Hửi mà không biết mùi mật ong sao? Tràm chớ giống gì! Muôn ngàn hủ mật ong của trời ban xuống cho trần gian còn treo lủng lẳng như mù sương trên nửa lừng đó. Hửi vô thì say. Say thì không tỉnh được. Có người toan dùng nó mà luyện thuốc trường sinh, từ trăm năm nay…”[5].
Rừng tràm mang lại cho con người rất nhiều nguồn lợi. Cái lợi lớn nhất như ta đã biết là mật ong. Sản phẩm này, một thời nhiều đến mức người ta phải phân chia rừng để thu thuế những người làm nghề “ăn ong”.[6] Và đó là nghề có thu nhập trước đây. Trong rừng tràm có nhiều loại thực vật, thảm thực vật, v.v., là điều kiện tốt cho muôn chim, động vật về sinh sống, ấy cũng là một nguồn lợi. Những ao, bàu, rạch, xẻo trong rừng tràm cũng mang lại rất nhiều nguồn lợi thủy sản. Còn có nhiều nguồn lợi khác chưa nhận biết hết được. Do nhu cầu kinh tế, nhiều người đã “thảm sát” tràm không thương tiếc. Nhưng, rừng tràm là “lá phổi lớn”, đã bao đời thở giúp con người ở Đồng bằng sông Cửu Long, Cà Mau, Kiên Giang, v.v.. Người dân cần phải quý tràm như lớp người đi trước đã từng bị ma lực rừng tràm cuốn hút:
“Hôm sau, chú viện cớ ra đi lúc mùa bông tràm nở trắng rực. Chú không thèm làm nghề ăn ong nữa. Hàng trăm tấm kèo bằng cây mun, chú giao lại cho ông hương giáo. Chú về Long Xuyên. Nhưng hương rừng có ma lực quyến rũ. Lúc mới đến thì vui, ở lâu lại sanh buồn. Xa cách lâu ngày thì đâm ra nhớ không nguôi, không trở lại không được.
Chú lại trở về.”[7].
Câu ca dao: “Mắm trước, đước sau, tràm theo sát. Sau hàng dừa nước mái nhà ai.” như một tổng kết quá trình con người đến định cư khai phá đất mới. Phải có “mắm, đước, tràm” đi trước. Rồi có “hàng dừa nước” để con người đinh cư, có lá lợp “nhà”, có thân để chụm, có nguồn lợi để sống. Khi ấy, con người mới bước đầu định cư được. Đó là quá trình dài, nhiều gian khổ, có sự đóng góp, hỗ trợ của tự nhiên, có sự nỗ lực vươn lên bền bỉ của con người, không hẳn “làm chơi ăn thiệt”, như một ít người vẫn nghĩ.
Ngoài những cây một thời gắn bó với người dân Nam Bộ, lại là những cây có công trong việc đi tiên phong mở đất, như “mắm, đước, tràm”, còn biết bao cây hoang dại khác đã gắn bó lâu đời với người dân quê lam lũ, như: “dừa nước, đủng đỉnh, mù u, bần, tra, quao, v.v.”, nay lần lượt vắng bóng. Nhu cầu kinh tế khiến người ta không muốn giữ chúng, phải nhường chỗ cho những gì cần hơn cho mục tiêu trước mắt. Đến một lúc, thế hệ tiếp nối sẽ không thấy chúng, biết tên chúng, thì sao nhận diện ra chúng. Riêng “Tam vị” (mắm, đước, tràm), hi vọng được người bảo vệ nghiêm ngặt trong những “vườn sinh quyển tự nhiên” và được “tôn thờ” như ba vị “tam công”, ba ông “phúc, lộc, thọ”. Vì với Nam Bộ, tam vị có công mở đất. Cần gìn giữ tình cảm đẹp, thân thiện giữa người và cây vốn có trong quá khứ.
[1]. Xem Huỳnh Công Tín: Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Sđd.
[2]. Bình Nguyên Lộc, Tuyển tập Bình Nguyên Lộc – Rừng mắm, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001, t. II, tr. 659 - 660.
[3]. Trích Tạp chí Điện tử Nature Geoscience.
[4]. “đi bông” là ong đi lấy mật (TG).
[5]. Sơn Nam: Hương rừng Cà Mau, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr. 570 - 571.
[6]. “ăn ong”: nghề khai mật và sáp ong (TG).
[7]. Sơn Nam: Hương rừng Cà Mau, Sđd, tr. 566.
Nguồn: tác giả