Do vậy, thuyết “Nhân thân tiểu vũ trụ” cho rằng con người là trời đất thu nhỏ. Thuyết “Thiên địa nhân hợp nhất” đặt con người trong mối quan hệ thống nhất với trời và đất. Tam Tài là mô hình thể hiện mối quan hệ giữa 3 nguyên lực Thiên - Nhân - Địa dựa trên nguyên lí Âm Dương.
Tam Tài |
Nguyên lí âm dương |
Thiên |
+ |
Nhân |
+/- |
Địa |
- |
Y học cổ truyền dân tộc dựa chắc trên nền tảng triết lí Âm Dương, coi sự quân bình âm dương là cơ sở của sự sống đồng thời cũng là nền tảng của trạng thái sức khoẻ con người. Y lí cổ truyền xem xét tất cả các triệu chứng lâm sàng đều dựa trên luật âm dương.
Âm dương bản chất là động, luôn chuyển đổi và chuyển hoá cho nhau. Đất thuộc âm, trời thuộc dương. Trời đất luôn chuyển động. Cơ thể con người cũng luôn biến đổi. Trời không chỉ là cái vòm không gian to, rộng trên đầu ta. Đất không chỉ là hình cầu bao la dưới chân ta. Đất Trời là những cái được dùng để hữu hình hoá âm dương. Đất trời (tức âm dương trong tự nhiên) chuyển động khác thường thì thời tiết rối loạn. Thời tiết rối loạn tất sẽ làm âm dương trong con người mất quân bình như vậy sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, thậm chí cả sự sống của con người. Y lí cổ truyền đặt con người trong thế Tam Tài (Thiên - Nhân - Địa) cũng vì lẽ đó.
Bởi trời đất luôn biến động nên con người phải thường xuyên xem lại mình để điều chỉnh cho phù hợp. Tự điều chỉnh mình tức là tự tìm những cách ứng xử để cơ thể hoà hợp với sự vận động của tự nhiên, vũ trụ. Lẽ âm dương vô cùng rộng lớn, tinh vi, nhìn thì không thấy hết được nhưng đâu đâu cũng có. Đối với loài người, cách ứng xử phù hợp nhất là đừng để âm dương trong tự nhiên và ngay trong chính bản thân bị chênh lệch đến mức thái quá hay bất cập (thái quá đối lập trong thể thống nhất với bất cập để chỉ sự mất quân bình).
Không để mất quân bình thì mọi sự yên ổn. Khi đất trời luân chuyển mà người mong được yên ổn thì bản thân phải chuyển đổi theo. Đó là cách ứng xử linh hoạt thuận theo trời đất. Sống thuận theo trời đất tất mọi sự sẽ tốt lành. Nói theo ngôn từ y học phương Đông là chính khí (khí của người) luôn hoà hợp với khách khí (khí của đất trời) thì con người luôn vui tươi, mạnh khoẻ, linh hoạt,...
Hiểu được lẽ âm dương trong y lí cổ truyền trước hết là để phòng bệnh.
Trời đất có ngày đêm thì người phải biết cách thức, ngủ.
Trời đất có 4 mùa: nóng, lạnh, ấm, mát thì người phải biết cách ăn, cách mặc sao cho hợp với thời tiết 4 mùa.
Trời đất có gió (phong), lạnh (hàn), nóng (thử), ẩm (thấp), khô (táo), nắng (hoả) thì người phải biết cách ở, làm lụng sao cho đừng bị trúng phải những thứ tà khí đó.
.....
Đại sư, đại danh y Tuệ Tĩnh - vị tổ sư ngành y Việt Nam và đại danh y Lê Hữu Trác (tức Hải Thượng Lãn Ông) đã nhiều lần dùng lẽ âm dương để biện giải về thuật dưỡng sinh và phương cách phòng, trị bệnh.
Trong "
Trong “Y tông tâm lĩnh”, phần Nội kinh yếu chỉ, Hải Thượng Lãn Ông đã chỉ cho ngươi đời sau biết cách thức, ngủ theo 4 mùa như sau: ba tháng mùa xuân ngủ muộn một tí, dậy sớm một tí ; ba tháng mùa hè ngủ muộn, dậy sớm ; ba tháng mùa thu ngủ sớm, dậy sớm như gà ; mùa đông phải ngủ sớm mà dậy muộn.
Trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, Danh y Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nhắc nhở mọi người nên coi trọng việc phòng bệnh, vì đó là cách tốt nhất để giữ gìn sức khoẻ :
“Thánh nhân đã có câu rằng
Đau hay cầu thuốc chẳng bằng ngừa đau”
Muốn phòng bệnh không phải chỉ cần giữ gìn cơ thể sạch sẽ, ăn uống có chừng mực là đủ mà còn phải biết "Đạo trời". Đó là sự chuyển đổi của khí hậu theo nguyên lý âm dương, thể hiện qua 24 tiết, vận hành theo các mùa trong năm (khí hậu chẳng qua là là sự chuyển đổi giữa khí dương và khí âm theo cách tính một khí bằng 3 hậu, một hậu có 5 ngày; một tiết có khoảng 14 hoặc 15 ngày). Rõ ràng các bậc danh y của ta đã hiểu rất sâu cái lí nhiệm màu của lẽ âm dương qua sự xoay chuyển của trời đất, từ đó khuyên mọi người biết cách sống thuận theo nó để được an lành.
Âm dương chuyển dịch được biện minh bằng thuyết Ngũ Hành. Đó là mô hình gồm 5 yếu tố về cấu trúc vũ trụ : THỦY, HOẢ, MỘC, KIM, THỔ . Trong Ngũ Hành có nhiều quan hệ như: tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ, chế hoá; trong đó mối quan hệ sinh, khắc là nền tảng. Mỗi Hành liên quan với các Hành khác bằng cả 2 quan hệ sinh, khắc, theo một trật tự nhất định. Mỗi Hành ứng với một phương, một mùa, một màu, một vị, một thế đất,... Bởi vậy, cái dụng của Ngũ Hành rất rộng lớn trong việc luận giải về vạn thể, vạn vật, vạn sự.
Thấu hiểu được Ngũ Hành thì biết được sự sắp xếp và chuyển biến của tự nhiên là rất vi tế. Mỗi Hành trong Ngũ Hành bao gồm một chùm các yếu tố ứng với không gian (Bắc, Nam, Đông, Tây, TW), thời gian (Đông, Hạ, Xuân, Thu, Tứ quí), các chất tự nhiên (nước, lửa, gió, kim loại, đất), các trạng thái thời khí (hàn, nhiệt, thấp, táo) … Các hành vận động luôn gắn với không gian, thời gian và có sự thay đổi về trạng thái thời khí. Thí dụ: Muà Đông gió lạnh tràn về từ phương Bắc, kéo theo mây đen dày đặc (lúc này bầu trời tối đen), mưa nhiều, thời tiết lạnh lẽo vì vậy, muà Đông phải tránh nhiễm lạnh, tránh nhiễm nước mưa, ngủ sớm dậy muộn; ngôi nhà là nơi trú ngụ lâu dài nên phải tránh hướng Bắc (và Đông Bắc). Mùa hè thì ngược lại. Gió đầu mùa Hạ thổi từ biển vào, rất mát nên phong thuỷ Việt Nam khuyên nên làm nhà phía Nam (và Đông Nam); đến cuối Hạ gió lệch Tây Nam, xuất hiện hiện tượng “fơn” rất nóng bức vì vậy ở miến Bắc và miền Trung phải tránh hướng Tây Nam.
Rõ ràng, thấu hiểu được Ngũ Hành không chỉ giúp ích cho chính mình mà còn giúp ích cho người khác trong cách sống và phòng tránh bệnh.
Trong khoa chữa bệnh, các thầy thuốc
Chẩn bệnh tức là tìm cho ra được gốc của bệnh. Tứ chẩn là 4 cách thức dùng để chẩn đoán bệnh, tìm ra gốc của bệnh.
Vọng : Nhìn hình thể, xem sắc màu cơ thể, dáng đi, đứng, nằm, ngồi...
Văn : Nghe tiếng nói, hơi thở.
Vấn : Hỏi về tình trạng sinh hoạt, hoàn cảnh gia đình...
Thiết : Dùng đầu của 3 ngón tay để xem mạch.
Khi thực hiện tứ chẩn, người thầy thuốc vận dung thuyết Ngũ Hành để luận về sự thể của các Hành trong thế sinh, khắc, thịnh, suy. Trong cơ thể con người mỗi Hành ứng với 1 tạng, 1 phủ, 1 thứ âm thanh của tiếng nói,...Tạng phủ khai khiếu ra ngoài bằng các khiếu. Hành nào bị suy yếu hoặc bị khắc phạt bởi Hành khắc nó thì tạng phủ thuộc Hành đó bị bệnh, khiếu cũng bị hại lây và bị đổi màu; tiếng nói phát ra cũng khác thường.
Chẩn bệnh để tìm ra nơi bị tổn hại chỉ là bước đầu. Điều quan trọng nhất là xác định bản chất hàn nhiệt của căn bệnh. Y lí cổ truyền đã chỉ rõ: “ Trị bệnh tắc cầu kì bản”. Chẩn đoán sai bản chất hàn nhiệt thì không phải “Sai một li đi một dặm” mà sống chết trong chốc lát: “Hàn ngộ hàn tắc tử, nhiệt ngộ nhiệt tắc vong”. Sở dĩ như vậy là vì khi mắc bệnh thì âm dương trong con người không quân bình: hoặc một bên thái quá thì bên kia bất cập, hoặc âm thịnh thì dương suy và ngược lại. Chẩn đoán sai dẫn đến chữa trị sai sẽ làm phá vỡ mối quan hệ âm dương vốn thống nhất trong cơ thể.
Xem mạch là phương pháp chẩn bệnh độc đáo có một không hai của y học phương Đông, trong đó có y học Việt
|
Cổ tay trái |
|
Cổ tay trái |
||
Phủ (+) Tạng (-) |
Cơ thể |
Ngũ Hành |
Bộ mạch |
Ngũ Hành |
Cơ thể |
Phủ |
Tiểu trường |
Hoả |
Bộ thốn |
Kim |
Đại trường |
Tạng |
Tâm |
Phế |
|||
Phủ |
Đởm |
Mộc |
Bộ quan |
Thổ |
Vị |
Tạng |
Can |
Tì |
|||
Phủ |
Bàng quang |
Thuỷ |
Bộ xích |
Thuỷ |
Tam tiêu |
Tạng |
Thận |
Mệnh môn |
Bằng hệ thống này, người thầy thuốc có thể phát hiện tình trạng tạng phủ của bệnh nhân thông qua luận thuyết Ngũ Hành. Cụ thể là xác định Hành nào đang bị hư yếu, Hành nào đang khắc phạt Hành bị bệnh, Hành nào đang hỗ trợ cho Hành bị bệnh...
Hệ thống trên cũng được dùng để luận hàn nhiệt thông qua 2 bộ THỦY và HOẢ.
Cách luận như sau:
+ Luận hàn nhiệt: Nếu bộ THỦY thịnh, bộ HOẢ suy thì bệnh gốc hàn. Nếu bộ HOẢ thịnh, Bộ THỦY suy thì bệnh gốc nhiệt.
+ Luận về tạng phủ: Nếu mạch đi theo hướng tương sinh thì mẹ là nguyên nhân gây bệnh cho con. Nếu mạch đi ngược hướng tương sinh thì con là nguyên nhân làm cho mẹ bệnh.
Trường hợp không phải do mẹ hoặc con gây bệnh thì sẽ là do Hành tương khắc gây cho Hành đang bệnh.
Thật ra, xem mạch là công đoạn hết sức công phu và tinh tế. Người xem mạch phải tài giỏi, luôn giữ “tâm không” mới có thể xác định được bệnh mới phát hay phát ra đã lâu, bệnh nặng hay nhẹ, bệnh đang tiến hay đang lùi... Và, tất cả mọi sự xem xét, suy đoán đều phải tuân thủ lẽ âm dương một cách nghiêm ngặt, cẩn trọng.
Lúc trị bệnh: như đã nói, các thầy thuốc
Bệnh ngoại cảm do tà khí (gồm phong, hàn, thứ, thấp, táo, hoả là những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài) nhập vào da lông. Bệnh chỉ tác hại ở phần biểu (phần ngoài da) nên không cần đến phương này thuốc nọ. Chỉ cần bát cháo tiêu hành nóng kèm nồi xông giải cảm là bệnh lui ngay. Sở dĩ như vậy là vì : Ngoại cảm do tà khí xâm nhập qua đường da, lông và mũi. Da, lông và mũi do phổi chủ quản nên liền đó phổi cũng bị tổn hại. Phổi thuộc KIM. Muốn trợ lực cho KIM thì vừa làm cho THỔ (mẹ của KIM) mạnh lên để giúp nó, [bát cháo hành tiêu cay nóng vào bao tử (THỔ) làm mạnh chính khí, có sức phát tán để đuổi tà khí] đồng thời vừa phạt bớt cái khắc nó là HOẢ [nồi xông làm ra mồ hôi tức phạt
Hễ bị cảm là phải chữa trị ngay vì bệnh còn nằm ở phần biểu, dễ chữa, bệnh chưa làm hại sức. Nếu để lâu, bệnh truyền vào phần lí (thuộc tạng phủ, thành nội thương) là rất khó chữa. Người Việt hết sức chú ý chữa các chứng ngoại cảm là vì vậy. Có thể tìm thấy hàng loạt phương cách trị bệnh dân gian của người phương
Bệnh nội thương thuộc phần bên trong cơ thể. Đối với bệnh nội thương không thể dùng cái kế vừa đánh bên trong vừa mở cửa dụ địch chạy ra liền ngay mà phải hoá giải để cho địch tự bị tiêu diệt hoặc chịu đầu hàng, chấp nhận bị dẫn ra ngoài. Lối đánh như vậy không làm hại sức khoẻ của người bệnh.
Phương thang thuốc
Cơ chế làm và dùng thuốc
Trong thực tế, những bài thuốc độc vị (một vị) trong thuốc
Để bồi bổ cơ thể các thầy thuốc
Tóm lại, có thể nói y và dược của dân tộc Việt
Trước đây, các thầy thuốc đến từ phương Bắc có nhận xét rằng: người Việt