Có điều lịch sử chưa thật công bằng. Công chúa Huyền Trân thì được ghi công trọng hậu trong sử sách, trong thơ văn, tên đường; còn bà Công nữ Ngọc Vạn không được nói tới, kể cả năm sinh năm mất! Với nhiều người thì đây là cái tên “lạ hoắc” nhưng đối với các nhà nghiên cứu sử học, nhất là những người nghiên cứu về nhà Nguyễn, thì rất quen thuộc. Tuy vậy, lâu nay, sử sách của chúng ta cũng chỉ lướt qua cái tên của bà chứ chưa hề đi sâu. Lý do duy nhất là quốc sử quán nhà Nguyễn không hề đề cập đến bà, mà chỉ ghi ngắn gọn “là em cùng mẹ với hoàng trưởng tử Kỳ, không có truyện”. Chính vì mấy chữ ngắn gọn ấy mà bốn thế kỷ đi qua, người công nữ “có công lớn trong việc mở đất phương Nam” bị bỏ quên, bị chìm khuất trong lịch sử.
Theo thế phả nhà Nguyễn công bố năm 1995, bà là con gái thứ hai của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635), con trai thứ sáu của chúa Tiên Nguyễn Hoàng. Chúa Sãi có bốn cô con gái là Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa và Ngọc Đỉnh. Mẹ của bà là “hoàng hậu Nguyễn Thị” nhưng theo ông Thái Văn Kiểm thì “mẹ của bà là con gái của Khiêm Vương - Mạc Kính Điển tên là Mạc Thị Giai, sau được chúa Nguyễn cho đổi ra họ Nguyễn”. Anh của bà là hoàng trưởng tử Nguyễn Phúc Kỳ, trấn thủ Quảng Nam năm 1614. Về bốn cô con gái của chúa Sãi, bản “Phổ hệ nhà Nguyễn trước Gia Long” của Tôn Thất Hân và Bùi Thanh Vân ghi “Ngọc Liên, con gái trưởng của Sãi Vương vợ của Nguyễn Phước Vĩnh, con trai của Mạc Cảnh Huống. Ngọc Đỉnh, con gái út của Sãi Vương, vợ của Nguyễn Cửu Kiều, bà mất năm 1684. Ngọc Khoa và Ngọc Vạn con gái thứ của Sãi Vương, không có dấu tích” (Bulletin des Amis de vieux Huế 1920). Thế nhưng theo ông Thái Văn Kiểm, bà Ngọc Khoa được gả cho vua Chiêm Thành - Pô Romê! Còn Ngọc Vạn thì nhiều người biết là được gả cho vua Campuchia Chey Chetta II.
Vì sao bà Ngọc Vạn “không có truyện” trong sử sách của nhà Nguyễn?
Khi trấn thủ Quảng Nam “Kỳ đến trấn chăm làm ân huệ, vỗ về, thương yêu quân và dân, trong cõi được yên ổn” (Đại Nam liệt truyện, tập 1). Mùa hạ năm Tân Mùi (1631) Kỳ mất để lại bốn con trai là Nhuận, Xuân, Tài và Trí. Không rõ tài trí của bốn người con của Nguyễn Phúc Kỳ ra sao mà năm 1635 khi băng hà Chúa Sãi không nhường ngôi lại cho “cháu đích tôn” là một trong bốn người con của Nguyễn Phúc Kỳ mà lại nhường ngôi cho người con thứ hai của ông (con vợ thứ) là Nguyễn Phúc Lan (thường gọi là Chúa Thượng). Theo lệ của vua chúa phương Đông xưa nay, ngôi cao “phải do con trưởng” thừa hưởng! Nguyễn Phúc Kỳ là con trưởng, đã mất thì con của Kỳ phải được nối ngôi thay cha. Thế nhưng không rõ nguyên nhân vì sao “con dòng thứ” lại được chúa Sãi nhường ngôi. Thế là sinh biến! Chúng ta hẳn không quên việc vua Gia Long - Nguyễn Ánh về sau nầy, nhường ngôi cho Minh Mạng, con thứ, thay vì cho con của Hoàng tử Cảnh (con trưởng) đã sinh ra nhiều chuyện. Con lớn của Nguyễn Phúc Kỳ là Nhuận (sử ghi là hoàng tử Anh) đã làm loạn. Chúa Thượng với nhiều tướng tài và lòng nhân đức đã xử lý việc này gọn. Vì việc ấy mà hai cô con gái em của Nguyễn Phúc Kỳ “không có truyện”? E rằng không! Bởi khi sự việc diễn ra, hai bà đã lấy chồng ở rất xa quê hương và chẳng liên quan gì đến việc làm của các cháu. Nói vì chuyện “của cháu” mà Ngọc Vạn và Ngọc Khoa bị gạt ra ngoài sách sử thì hơi khiên cưỡng bởi hai bà Ngọc Đỉnh và Ngọc Liên cũng là chị em với Kỳ thì được ghi danh. Vả lại, cả hai bà đều “lấy chồng hoàng gia” ắt hẳn việc chuẩn bị cưới hỏi khá linh đình các sử gia đương thời không thể không biết. Đơn cử trường hợp bà Ngọc Vạn, đầu năm 1620 vua Campuchia dạm hỏi đến cuối năm 1620 mới về nhà chồng. Chỉ có một cách giải thích việc “không có truyện” của các bà trong sử sách là vì “tự ái” hay vì gả cho ngoại bang rồi nên không quan tâm?
Năm Canh Thân 1620, “Chúa Sãi gả người con gái thứ nhì là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II”. Quốc sử triều Nguyễn chỉ ghi ngắn gọn như vậy. Còn lịch sử Campuchia thì ghi “Quốc Vương Chey Chetta II xin cưới công nữ của chúa Nguyễn làm hoàng hậu vì mong được sự ủng hộ của triều đình nhà Nguyễn ở Thuận Hóa.” Còn các nhà truyền giáo Thiên Chúa đang có mặt ở Chân Lạp và xứ Đàng Trong thì viết “Vua Chân Lạp Chey Chetta II muốn tìm một đối lực để chống lại thế lực của Xiêm La nên xin cưới một công nữ của chúa Nguyễn làm hoàng hậu, trông mong được sự ủng hộ của triều đình Thuận Hóa, và Chúa Sãi thì có mưu đồ xa xôi, năm 1620 đã gả con gái cho vua Chân Lạp. Cuộc hôn nhân này có ảnh hưởng lớn lao đến vận mạng của Chân Lạp sau này”. Dù không ưa bà hoàng hậu người Việt, nhưng các nhà viết sử Campuchia cũng phải thừa nhận “bà rất xinh đẹp và rất khôn khéo, do vậy chẳng bao lâu sau bà có ảnh hưởng rất lớn đối với vua Chessda II”. Do không có sử sách ghi rõ năm sanh của bà nên chúng ta đoán rằng khi lấy chồng xa xứ bà Ngọc Vạn khoảng từ 14 đến 17 tuổi, nghĩa là bà sanh vào khoảng năm 1603 đến 1606.
Đây là thời kỳ cực kỳ khó khăn cho cả hai nước Việt lẫn Campuchia.
Nước Campuchia sau nhiều thế kỷ đánh nhau đến khi Chey Chetta II rước công nữ Ngọc Vạn về thì đã suy yếu lắm! Chey Chetta II từng là “tù binh” của Xiêm suốt nhiều năm dài, có sách nói 10 năm, có sách nói 20 năm.
Do nội loạn, do chiến tranh với Thái Lan, Miến Điện và Chiêm Thành từ thế kỷ thứ VI, đến thế kỷ XVII Campuchia là quốc gia rất yếu. Từ năm 1515 kinh đô Lovek bị quân Xiêm (Thái Lan) chiếm đóng, nước Campuchia bị Xiêm đô hộ và mấy chục vạn người bị bắt, bị giết. Hàng năm Campuchia phải triều cống cho Xiêm và Chey Chetta II bị bắt làm tù binh ở Xiêm đến năm 1618 mới được trở về nối ngôi sau khi vua cha băng hà. Trong suốt thời gian dài từ 10 tới 20 năm làm tù binh ở Xiêm, hẳn Chey Chetta II không thể không căm thù và không tìm cách báo thù. Ngay sau khi nối ngôi, Chey Chetta II bắt tay vào xây dựng lại quốc gia đã đổ nát nhiều thế kỷ. Việc làm đầu tiên của Chey Chetta II sau khi lên ngôi là “dời đô” từ Lovek đổ nát về Oudong gần Phnôm Pênh ngày nay. Sau đó ông chấn chỉnh triều chính và quân đội. Trong việc tìm kiếm một thế lực để dựa vào và có thể chống lại quân Xiêm không đâu “gần gũi” bằng nước Đại Việt ở Thuận Hóa. Dù khi ấy Đại Việt cũng chưa phải mạnh lắm và đang phải chống chọi với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Nhưng thà có còn hơn không! Chính vì vậy mà năm 1620, Chey Chetta II đã tìm đến với Thuận Hóa bằng lời cầu hôn với chúa Nguyễn.
Đang đứng giữa hai gọng kìm quân Trịnh ở phía bắc, quân Chiêm Thành ở phía Nam, lời cầu hôn của Chey Chetta II đã mở một cánh cửa hy vọng cho chúa Nguyễn. Cánh cửa ấy là một vùng đất xa hơn nơi quân Trịnh khó có thể truy đuổi tới, một nơi có thể an cư cho những đời sau: vùng đất Thủy Chân Lạp hoang vắng.
Chính vì vậy, bà Ngọc Vạn đã được gả về làm dâu hoàng gia Campuchia. Sau khi bà Ngọc Vạn về làm dâu ba năm, năm 1623, chúa Nguyễn đã đề nghị chàng rể cho phép đặt hai đồn thu thuế ở Kas Probey và Prei Nokor (tức Sài Gòn - Chợ Lớn ngày nay). Việc “lập đồn” hẳn không nhằm thu thuế ít ỏi từ người Việt lưu tán mua bán ở địa phương nầy mà nhằm vào việc thăm dò vùng đất nới nhằm lập một hậu cứ cho mai sau. Mặt khác, vùng đất mới nầy còn là “căn cứ” ở phía sau lưng nước Chiêm Thành thù địch luôn tìm cách quấy phá Thuận Hóa. Trong cuốn Le Cambodge, A.Dauphin Meunier viết “Năm 1623, Chey Chettha, người đã cưới công chúa Việt Nam, được triều đình Huế giúp đỡ để chống lại quân Xiêm... Một sứ bộ Việt Nam đã tới bảo đảm với Chey Chetta về sự ủng hộ của triều đình Huế. Sứ bộ xin phép cho dân Việt Nam tới lập nghiệp ở các tỉnh phía Đông Nam vương quốc. Vua Cao Miên cho phép lập một phòng thu thuế tại Prey Kôr để tài trợ việc định cư”. Trong Việt sử xứ Đàng Trong, nhà sử học Phan Khoang viết “năm 1620, đã gả cho vua Chân Lạp một công nữ. Cuộc hôn nhân này có ảnh hưởng lớn lao đến vận mạng Chân Lạp sau này. Bà hoàng hậu đem nhiều người Việt đến, có người được giữ chức hệ trọng trong triều, bà lại lập một xưởng thợ và nhiều nhà buôn gần kinh đô”.
“Đến năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đến Oudong yêu cầu được lập cơ sở ở Prey Kôr tức Sài Gòn ngày nay và được ở đấy một sở thu thuế hàng hóa. Vua Chey Chetta chấp thuận và triều đình Thuận Hóa khuyến khích người Việt di cư đến đấy làm ăn rồi lấy cớ để giúp chính quyền Miên gìn giữ trật tự, còn phái một tướng lãnh đến đóng ở Prey Kôr nữa. Khi Chey Chatta mất, vùng đất từ Prey Kôr trở ra bắc đến biên giới Chiêm Thành tức là Sài Gòn, Bà Rịa, Biên Hòa ngày nay, đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai”.
Từ năm 1611, sau cuộc chiến tranh với Chiêm Thành, nước Đại Việt đã đặt chân tới Phú Yên. Năm 1653, vua Chiêm là Bà Tấm xua quân tấn công Phú Yên hòng chiếm lại vùng đất nầy nhưng không thành phải bỏ chạy vào Phan Rang bỏ lại vùng đất Thái Khương (tức Khánh Hòa ngày nay) cho chúa Nguyễn. Từ năm 1692 đến 1694, vua Chiêm là Bà Tranh lại ồn ào kéo quân đánh Thái Khương và thất bại, vùng đất còn lại lọt vào tay chúa Nguyễn. Có thể nói năm 1694 là năm Chiêm Thành bị diệt hoàn toàn mà nguyên nhân là cuộc tấn công Phú Yên của vua Bà Tấm năm 1653.
(Rạch Bến Nghé năm 1931. Nguồn: yume.vn)
Trong suốt thời gian từ 1623 đến 1694, vùng đất mà chúa Nguyễn được con rể cho phép lập đồn thu thuế cũng phát triển vũ bão. Dân chúng từ các nơi kéo về sinh sống đông đảo hơn, mua bán sầm uất hơn, khai phá đất đai, trồng trọt nhiều hơn, đời sống dân chúng sung túc hơn…
“Ở đây xứ sở lạ lùng,
Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”
Từ một vùng hoang vu cọp trên rừng, sấu dưới sông dầy ken trở thành vùng đất dư sức nuôi sống nhiều người là công sức rất lớn của nhiều thế hệ người Việt di dân góp vào. Không thể không nói đến sự hy sinh cả máu xương rất lớn của những người đến vùng đất mới nầy để đời sau thừa hưởng. Vùng đất nay phồn hoa, sung túc khi xưa là vùng hoang hóa, ít người cư ngụ, có thể coi là vùng đất bị chối bỏ bởi chính quốc. Phải nói thêm rằng, cho đến năm 1623, Kas Krobey và Prei Nokor là vùng hoang hóa, sình lầy gần như không có người Chân Lạp cư ngụ. Đây là đất mà người Chân Lạp chiếm của người Phù Nam từ thế kỷ thứ VI. Vùng đất thấp này không phù hợp với người Chân Lạp vốn thích ở nơi cao ráo, nên từ khi thu dụng cho đến 1623 gần như không có người Chân Lạp đến ở hoặc khai khẩn. Nếu có cũng là vài vị sư sãi và một số người Việt, Hoa lang bạt kỳ hồ sinh sống bằng nghề buôn bán, đánh bắt.
Khi bà Ngọc Vạn về làm dâu hoàng thất Campuchia còn xin vua cha cho thợ đóng chiến thuyền tới Phnôm Pênh để giúp Campuchia đóng chiến thuyền và du thuyền mà nay “dấu tích xưởng đóng tàu nằm bên kia sông Mekong, phía trước mặt thành Phnôm Pênh” (Huỳnh Văn Lang - Công chúa Ngọc Vạn). Không chỉ vậy, người Việt còn viện trợ vũ khí, huấn luyện binh sĩ cho Campuchia… Giáo sĩ người Ý tên Christopho Borri ở Quy Nhơn đã nhìn thấy viện binh từ Đàng Trong đi Cao Miên, ghi lại trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1631 “Chúa Nguyễn luôn luyện tập binh sĩ và gởi quân đội giúp vua Cao Miên, tức chàng rể chồng của con chúa. Chúa viện trợ cho vua Cao Miên thuyền bè, binh lính để chống lại vua Xiêm”.
Chính vì vậy mà năm 1621-1623, Campuchia đã đánh bại cuộc xâm lược của Xiêm. Và đây là chiến thắng đầu tiên của Campuchia trước quân Xiêm trong suốt 100 năm.
Sự kiện quan trọng này là tiền đề để người Campuchia cởi bỏ ách đô hộ của Xiêm, không triều cống, không gởi con tin sang Xiêm nữa. Mặt khác, chiến thắng đã tôn vinh sự “sáng suốt” của Chey Chetta II, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của bà hoàng hậu Việt - Ngọc Vạn. Chính thời kỳ nầy, năm 1623, Chey Chetta II đã dời đô về Phnôm Pênh và bà Ngọc Vạn đã mời gọi các thương nhân Việt đến Campuchia buôn bán, mở những xưởng tiểu thủ công nghiệp góp phần làm cho Phnôm Pênh phát triển. “Để làm vui lòng bà Ngọc Vạn cũng như chúa Nguyễn, vua Chey Chetta II đã lập nhiều người Việt Nam làm quan văn võ trong triều đình Chân Lạp tại Oudong. Đồng thời, rất nhiều người Việt Nam được phép lên Oudong mở các cơ xưởng công nghệ, đóng tàu thuyền cho triều đình, giúp Chân Lạp phòng thủ chống quân Xiêm. Càng sống chung lâu ngày với người Việt, nhà vua càng cảm thấy người Việt hiền hòa, chăm chỉ và làm được nhiều điều lợi ích cho đất nước Chân lạp, nên sự việc lưu dân đến đây lập nghiệp không có gì trở ngại” (Người Long Hồ - Đất Phương Nam, 2012).
Nhưng cuộc đời của bà Ngọc Vạn không được hạnh phúc lâu bền. Tám năm sau, năm 1628, vua Chessda II qua đời ở tuổi 40, còn bà có lẽ góa bụa ở tuổi khoảng 25-27.
Theo Lương Văn Lựu thì bà “có hai con với Chessda II, một trai là Chan Ponhéa Sô và một gái tên là Neang Nhéa Ksattrey” (Biên Hòa sử lược - Sài Gòn 1973). Khi chồng mất, con bà lên ngôi (1628-1630), sau đó bị giám quốc Outey giết vì gái!
Thái Văn Kiểm thì viết, sau khi Chey Chetta II mất, vương quyền thuộc về tay ba người là Ponhéa To (con trai của bà Ngọc Vạn và Chey Chetta II khoảng 7-8 tuổi), Hoàng thái hậu Ngọc Vạn và giám quốc Prea Outey, em trai của Chey Chetta II (Hương Giang Thái Văn Kiểm - Công chúa Ngọc Vạn. Văn hóa Việt Nam số 22 năm 2003).
Hương Giang trích L’Indochine du Sud của Cl. Madroller xuất bản năm 1926 “Ponhea To là một hoàng tử Miên - Việt rất thông minh và đã được giáo huấn rất chu đáo. Vua Chey Chetta khi còn sống định cưới cho hoàng tử nường Công chúa Ang Vodey. Nhưng chẳng may, khi ngài vừa mất thì Préa Outey, tức là chú ruột của hoàng tử, lại cưới nường công chúa Ang Vodey trong khi hoàng tử còn phải trường trai trong tu viện”.
“Sau khi rời tu viện, Chau Ponhéa To lên ngôi Chân Lạp và trong một buổi tiếp tân trông thấy Ang Vodey liền đem lòng cảm mến và sau đó hai người cũng thương trộm nhớ thầm một cách tha thiết. Công chúa bèn trốn chồng bỏ nhà ra đi theo vua vào rừng săn bắn. Ông chú là Préa Outey biết được liền rượt theo và giết chết cả hai người”.
Người Long Hồ lại ghi nhận khác. Sau khi Chey Chetta II mất, giám quốc Outey, chính là người từng đi đón bà Ngọc Vạn về làm dâu hoàng thất Campuchia, là người “hết lòng bảo vệ Ngọc Vạn” và ông “tiếp tục theo đuổi chính sách thân Việt Nam, chống Xiêm”. Ông đã đưa Ponhea To (1628-1630) và Ponhea Nu (1630-1640) là “em họ” lên ngôi. Còn bà Ngọc Vạn với “hai con trai nhỏ” đã tránh nghi kỵ của triều đình bằng cách “đưa hai con ra ngoại thành, lập chùa tụng kinh cầu an cho hoàng gia”.
Có thể có sự lầm lẫn ở đây. Bởi bà Ngọc Vạn lấy chồng được 8 năm thì chồng mất, do đó bà không thể có con “đến tuổi trưởng thành” được. Người Campuchia xưa nay có lệ, con trai đến tuổi trưởng thành phải vào chùa tu từ một đến ba năm để “trả ơn cha mẹ”. Sau thời gian ấy người con trai sẽ ra đời tiếp tục sống bình thường. Ghi nhận của Hương Giang rất có thể đã lầm người em họ trẻ tuổi là con của bà Ngọc Vạn vì vậy có thể tin Người Long Hồ là đúng!
Còn lịch sử Campuchia viết, sau khi Chey Chetta II chết, để ngôi lại cho Ponhea To hay Ang Saur. Ang Saur chết em là Ponhea Nou nối ngôi, phụ chánh là Outey, chú của vua, từng là phó vương thời Chey Chetta II. Năm 1640, Nou bị giết, Outey đưa con mình lên ngôi là Ang Non I. Hai năm sau, 1642, con thứ của Chey Chetta II có mẹ là người Lào là Chant, với sự hỗ trợ của người Mã Lai, Chiêm Thành nổi lên giết Outey và Ang Non I, cướp ngôi lên làm vua lấy tên là Nặc Ông Chân. Khi Nặc Ông Chân lên ngôi, bà Ngọc Vạn trở thành cái gai trong mắt vua. Để hai con an toàn, bà Ngọc Vạn đã đưa hai con về Mô Xoài ẩn thân (Người Long Hồ - Vùng đất Cochinchine và công chúa Ngọc Vạn). Mô Xoài chính là vùng Bà Rịa ngày nay. Lúc này, cả vùng đất nầy đều có nhiều người Việt bởi “khi quốc vương Chey Chetta II băng hà, cả vùng đất thuộc miền Nam từ Prei Nokor đến ranh giới với Chiêm Thành đều do người Việt cai trị”. Sau đó, bà và hai con đã tới Prei Nokor “lập chùa” và góp phần làm phồn thịnh vùng đất nầy (Người Long Hồ). Tuy nhiên, việc bà Ngọc Vạn về Mô Xoài rồi sau đó là Prei Nokor (vùng Chợ Lớn ngày nay) chưa thấy ghi chép trong bất cứ sử liệu nào.
Trong 17 năm làm vua từ 1642-1659, đất nước Chân Lạp loạn lạc vô cùng mà dân gọi là “vua tà đạo”, Nặc Ông Chân đã theo lời vợ là người Mã Lai, đổi quốc giáo là đạo Phật để theo đạo Hồi khiến xã hội đảo lộn. Với chính sách “mất lòng dân” ấy Nặc Ông Chân không thể tồn tại lâu. Năm 1658, con của Outey là Ponhea So và Ang Tan nổi dậy nhưng không đánh nổi Nặc Ông Chân và chạy sang Mô Xoài lánh nạn. Nặc Ông Chân thừa thế kéo quân sang Mô Xoài để đánh Ponhea So và Ang Tan, đồng thời tìm cách diệt luôn hai con trai của bà Ngọc Vạn để trừ hậu họa về sau. Ponhea So và Ang Tan cùng một số sư sãi đến gặp bà Ngọc Vạn ở một ngôi chùa (không nói rõ chùa nào, ở đâu) cầu xin cứu giúp và có lẽ để báo cáo tình hình. Trước tình thế đó, bà Ngọc Vạn đã viết thư cho chúa Hiền, là cháu của bà, và cử sứ giả về Thuận Hóa xin giúp đỡ. Được thư của bà Ngọc Vạn, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687), dù đang khó khăn ở mặt trận phía Bắc với quân Trịnh, cũng đáp ứng ngay. Chúa Hiền sai trấn thủ dinh Phú Yên - Khánh Hòa Nguyễn Phúc Yến, Cai đội Xuân Thắng và Tham mưu Minh Lộc đem 3.000 quân tinh nhuệ tấn công Nặc Ông Chân. Hai bên đã đánh nhau tại Mô Xoài (Bà Rịa) và Nặc Ông Chân thảm bại, bị bắt (hay bị giết? Sử gia Trần Trọng Kim ghi Nặc Ông Chân bị bắt đem về giam tại Quảng Bình) tại trận. Sau khi diệt Nặc Ông Chân, Chúa Nguyễn sắp xếp để “con trai của bà Ngọc Vạn lên ngôi lấy hiệu là Batom Reachea” đóng đô ở Oudong trị vì từ 1660 đến 1672. Sử Chân Lạp ghi “Nhờ người Việt Nam mới được làm vua, quốc vương Batom Reachea ký hòa ước nhận triều cống cho chúa Nguyễn hàng năm. Cho người Việt Nam được làm chủ phần đất vừa khai hoang. Cho người Việt được định cư trong lãnh thổ Chân Lạp và được hưởng quyền lợi ngang hàng với người Miên”. Chúa Hiền lại đặt người con thứ hai của bà là Ang Non làm “nhị vương đóng đô ở Prei Norkor” (Người Long Hồ - Đất phương Nam). Sử Campuchia thì ghi “Nặc Ông Chân chết chúa Nguyễn phong cho So làm vua Chân Lạp, hiệu là Batom Reachea (ở ngôi: 1660-1672). Từ đó, lưu dân Việt đến Gia Định, Mỗi Xuy (Bà Rịa), Biên Hòa ngày càng đông để khai khẩn đất đai... Năm 1672, vua Batom Reachea bị một người vừa là rể vừa là cháu là Chey Chetta III giết chết, em là Ang Tan (Nặc Ông Tân) chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng ngay sau đó Chey Chetta III cũng bị người của Nặc Ông Chân sát hại. Ang Chei (Nặc Ông Đài, ở ngôi: 1673-1674) con trai đầu của vua Batom Reachea lên ngôi. Ông Đài cho đắp thành lũy ở địa đầu Mỗi Xuy, nhờ Xiêm cứu viện để chống lại chúa Nguyễn. Bị quân Xiêm đánh đuổi, Ang Tan cùng cháu là Ang Nan (Nặc Ông Nộn) chạy sang Sài Côn kêu cứu chúa Nguyễn. Năm 1976, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Nguyễn Dương Lâm và Tham mưu Nguyễn Đình Phái chia quân làm hai cánh cùng tiến lên Chân Lạp. Nặc Ông Đài bỏ thành Nam Vang chạy vào rừng, để rồi bị thuộc hạ đâm chết. Sau khi Nặc Ông Đài mất, người em là Nặc Ông Thu (Ang Sor) ra hàng. Để giải quyết tình trạng “nồi da xáo thịt” dai dẳng này, chúa Nguyễn cho Nặc Ông Thu làm Chính vương, đóng đô ở Phnôm Pênh (Nam Vang), cho Nặc Ông Nộn làm Đệ nhị vương, đóng đô ở khu vực gò Cây Mai (thuộc Sài Côn, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh... Tuy nhiên, hai phe vẫn không từ bỏ ý định loại trừ nhau”.
Và sau chiến thắng của Nguyễn Phúc Yến, người Việt bắt đầu tự do được khai khẩn vùng đất Bà Rịa - Biên Hòa và Sài Gòn.
Những năm sau đó, nước Chân Lạp lại tranh giành vương quyền. Từ năm 1672 đến 1691, triều đình Chân Lạp loạn lạc liên tục. Một số trong số đó đã chạy sang nhờ Đại Việt giúp đỡ và trả ơn bằng những vùng đất hoang vắng ở Thủy Chân Lạp. Và mỗi lần như vậy hẳn có thể có sự trợ giúp của bà Ngọc Vạn. Người Chân Lạp xưa và người Campuchia nay cũng không công bằng với bà hoàng hậu người Việt. Nếu không có bà, hẳn nước Chân Lạp đã lọt vào tay quân Xiêm từ những năm 1621-1623 rồi. Chính nhờ có bà mà Chey Chetta II đã chiến thắng quân Xiêm, một chiến thắng mà người Chân Lạp mơ ước suốt 100 năm liền. Chiến thắng ấy đã làm thay đổi diện mạo đất nước nầy cho đến ngày nay. Việc người Việt đến và khai phá vùng đất hoang vu vốn là “đất của nước Phù Nam xưa”, một vùng đất mà chính người Chân Lạp không cư ngụ, không gieo trồng… đã biến vùng đất này trở thành nơi trù phú, đô hội. Để làm được việc ấy, người Việt đã bỏ ra biết bao máu, mồ hôi và công sức.
Chúng ta cũng không quên sự kiện các tướng nhà Minh đã được chúa Nguyễn cho phép định cư ở Biên Hòa, Mỹ Tho và Hà Tiên từ 1679. Sự “cho phép” nầy xác định các vùng đất phương Nam ngày nay khi ấy thực sự là đất của người Việt rồi. Và như vậy, công của bà Ngọc Vạn rõ ràng không nhỏ. Nhưng cho tới nay, chúng ta vẫn chưa làm điều gì đó “xứng tầm” với công sức của bà trong việc mở đất phương Nam.
Nguồn: Từ Bến Nghé tới Sài Gòn