Nhà ở cổ truyền của người Raglai là những nhà sàn gần giống như nhà sàn của một số dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Trước đây người Raglai sống trong những ngôi nhà sàn dài sàc inã (nhà mẹ tổ mẫu), trong đó là những hộ gia đình thân thuộc với nhau về phía mẹ, nhà chia thành nhiều buồng cho những gia đình nhỏ trong gia đình lớn, mỗi hộ gia đình lại có các bếp riêng. Trong sử thi akhàt jucar Raglai, để mô tả chiều dài của nhà tổ mẫu, họ đã có những câu hát qua làn điệu siri cổ mượt mà ca ngợi chiều dài căn nhà như tiếng chiêng, tiếng ma la ngân, dài như tiếng chân ngựa thần sải cánh bay:
"...Ơi tiếng kêu thanh song này như quý ngọc ngà,
Tiếng kêu tấm vạt trãi sàn là sắt thép dậm chân phía trên kêu vang xuống dưới .
Dậm chân từ bên kia tiếng vang tận bên này...
Tiếng kêu vang của vòng còng đeo tay như tiếng lục lạc,
Tiếng kêu vang của vòng còng leng beng, leng beng...".
(Trích ở khúc hát 5 akhàt jucar Raglai Awơi Nãi Tilơr)
Nhà truyền thống của người Raglai có kết cấu bao gồm: Cột cái (vavuc sàc), cột con (gưc), cột chống sàn (patoq tumưh), xuyên (tikra gaq), trính (tikra dưc), đòn dông (achua), đòn tay (op). Pajaq là một thành phần trên mái như kèo nhưng không hẳn là kèo vì không phải nối kết với cột mà chỉ một thành phần chính đối với khung mái, rui (mal), mè (raneng)... đều bằng cây gỗ lấy trong rừng và nối kết với nhau bằng các mộng, ngoãm... cột bằng dây mây, các loại dây leo có mủ trong rừng. Mái nhà (rugãq) thông thường lợp bằng lá mây (sarawai) hoặc tranh (ralàc). Nhà dài truyền thống của người Raglai không có chái hai đầu hồi để dễ dàng có thể nối dài ra hai bên khi cần. Trong kết cấu kỹ thuật ở nhà dài cổ truyền người Raglai là nhà khung cột, không có vì, giữa mái nhà và khung nhà là hai bộ phận riêng, mái có thể làm ở dưới rồi mang úp lên khung nhà sau hoặc làm luôn khi dựng nhà. Theo GS.Ngô Đức Thịnh trong công trình "Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa Việt Nam" cho rằng "căn nguyên của kết cấu này từ nguồn gốc lịch sử xa xưa của những cư dân sống trên thuyền" [Ngô Đức Thịnh: trang 306].
Nhà truyền thống của người Raglai có sàn cao mặt đất lên từ 1,5 đến 2 mét (tuỳ theo địa hình cụ thể nơi dựng nhà). Chiều dài của nhà trên dưới 20 mét, chiều ngang 4,5 đến 5 mét. Nhà truyền thống của người Raglai không làm cầu thang chính ở một đầu hồi như của người Giarai, cầu thang có thể là các bậc bằng cây, gỗ như cái thang (anảq linhàt) chúng ta thường thấy hoặc là khúc gỗ lớn được đẽo (tacai linhàt) tạo ra các bậc (tahlaq linhàt), các bậc luôn luôn là số lẻ (5, 7 hoặc 9). Cầu thang của người Raglai không ở một bên hồi nhà như một số dân tộc Tây Nguyên khác, cầu thang của họ lên ngay cửa chính (voh bac riya) của căn nhà, ngoài ra còn có một, hoặc hai cầu thang phụ hai bên đầu hồi, cầu thang này nhỏ hơn chiều ngang nhưng bậc thang cũng phải là số lẻ. Trước cửa chính nhà có một sàn hiên (atuơh diriah), sàn hiên này không nhất thiết phải làm dọc theo chiều dài của căn nhà (bởi căn nhà liên tục nối dài khi cần) nhưng phải rộng bằng gian chính (duq inã) của căn nhà. Bước qua bậc cửa chính là gặp ngay cột cái (vavuc sàc) của căn nhà, đây là nơi ngự của các vị thần linh, nơi ở của ông bà tổ tiên chủ nhà (người vợ), tên gọi đầy đủ của cột cái nhà sàn tổ mẫu là "vavuc sàc sumàc tapai", có nghĩa là cột cái nhà khay bàn có chân bày biện rượu cần làm lễ. Tại cột cái này mọi cuộc lễ lớn của gia đình, dòng họ...lễ vật đều phải để trên khay có chân đan bằng tre, nứa hoặc lồ ô chứ không để trên khay, nong nia bình thường và tất nhiên phải có rượu cần (tapai) để cúng yàc. Hầu hết các cuộc lễ trong năm, lễ cưới, tang ma... đều diễn ra tại cột cái nhà sàn tổ mẫu.
Trong nhà, ở gian chính là nơi ở của chủ nhân, gian chính lại chia làm hai phần, phía bên trái nhà là nơi ở của người già, cha mẹ của chủ nhà, phía bên phải là nơi ở của vợ chồng chủ nhà. Căn phòng ở bên trái nhà là nơi dành cho con gái, gọi là chucapa, đây cũng là nơi chứa bông, đập vải xe sợi để dệt vải may áo váy cho mọi người trong nhà. Khi con gái bắt chồng về, căn nhà làm nối dài ra bên phải và làm vách ngăn (puq janang) ngăn buồng lại cho cặp vợ chồng này. Toàn bộ vách ngăn buồng, vách thưng quanh nhà chủ yếu làm bằng cây nứa (jrau), tre (kram) hoặc lồ ô (triac) đập dập và đan theo kiểu lóng một, đây cũng chính là "một kiểu thưng vách tiêu biểu của cư dân Nam Đảo, ngày nay còn thấy phổ biến ở cư dân hải đảo" [Ngô Đức Thịnh 2004: trang 307]. Theo thời gian, căn nhà cứ thế làm dài mãi ra, khi các cô gái lớn đủ điều kiện ra ở riêng thì căn nhà tổ mẫu lại giành cho con gái út.
Nhà truyền thống của người Raglai ở gian chính, sàn được trải vạt nhưng cũng theo quy ước nhất định. Phần phía trong nhà, từ cột cái đi vào, vạt trải theo chiều dọc căn nhà, các tấm vạt này đan bằng cây tre hoặc lồ ô già ngâm nước tránh mối mọt và được nối với nhau bằng những sợi dây mây, gọi là vạt trên (rupa chhĩa anẽh), các tấm vạt từ cột cái trở ra cửa chính được trải theo chiều ngang căn nhà gọi là vạt dưới (rupa chhĩa chhỏq). Theo tục lệ của người Raglai, khi trong dòng họ (pitìat) hay trong gia đình (sàc dahnỏq) có vụ việc như ma chay, cưới hỏi, cúng tế... vạt trên dành cho đàn ông, thanh niên trai tráng ngồi, vạt dưới là chổ ngồi của đàn bà, con gái.
Toàn bộ sàn nhà truyền thống được kết cấu bằng năm lớp:
*Lớp thứ nhất: Là các đà ngang lớn gác theo chiều rộng căn nhà, gọi là sanròq dưc tumữh. Các đà này cách nhau khoảng 50 phân, hai đầu gác trên cột chống sàn patòq tumữh. Các sanròq dưc tumữh lại cách đều cứ một cây có gác lên cột chống sàn, cây tiếp theo không gác mà lại được cột vào các sanrah gaq ở lớp thứ hai, những đà này có tên gọi là sanròq dưc paduc. Thông thường người Raglai chọn các cây có nạng sẵn để làm patòq tumữh cho tiện khi gác cây đà ở lớp thứ nhất.
*Lớp thứ hai: Là các cây đà gác theo chiều dài của nhà, gọi là sanrah gaq. Các sanrah gaq có kích thước nhỏ hơn sanròq dưc tumữh (khoảng nhỉnh hơn cổ tay, cổ chân của người lớn một ít), độ rộng giữa các sanrah gaq với nhau chừng 2 đến 3 gang tay. Một điều quy định là các sanròq dưc tumữh, sanròq dưc paduc và sanrah gaq luôn luôn phần gốc của chúng phải chung một hướng chứ không gác tùy tiện.
*Lớp thứ ba: Có tên gọi là lih dưc. Đây là các cây tre, lồ ô hoặc cây có kích thước nhỏ hơn lớp thứ hai, chúng được lót theo chiều rộng của căn nhà ở ngay trên lớp sanrah gaq, khoảng cách giữa các cây lih dưc với nhau độ 1 gang tay.
*Lớp thứ tư: Là các cây tre hoặc lồ ô được chẻ thanh lớn từ 2 đến 3 ngón tay được đan dày và trải theo chiều ngang của căn nhà. Lớp này có tên gọi là rupa.
*Lớp thứ năm: Bao gồm các tấm vạt trên (rupa chhĩa anẽh) và vạt dưới (rupa chhĩa chhỏq).
Vào gian chính căn nhà dài truyền thống của người Raglai, người ta thường thấy ngay ở vách đằng sau có một gác được thiết kế như một kệ bằng nứa, tre hoặc lồ ô dùng để gác các vật dụng quí trong nhà như mala, mâm thau đồng, các loại nhạc cụ khác như khèn bầu, sáo talakung, talẽq... Loại kệ này có tên là para (có nghĩa là quí giá) và đây cũng chính là nơi để ống tên, nỏ, gươm, giáo, đồ dùng của khách khi đến thăm nhà, theo quan niệm của mình, người Raglai rất kiêng kị khi để phụ nữ, trẻ em bước qua đồ dùng của khách (kể cả ống tên, nỏ của thanh niên, đàn ông trong nhà). Đối diện với kệ para, phía vách nhà đằng trước là kệ dahnuỡ. Loại kệ này dùng để chén đũa, song nồi...thường dùng hằng ngày. Ngay trên bếp lại có một giá kệ dahnuỡ apui. Nơi đây thường gác các đồ dùng để hun khói, chống mối mọt như lạt buộc, thịt rừng...
Trong nhà dài truyền thống, người Raglai thường có nhiều bếp:
-Bếp để nấu cháo bắp hầm, thường xuyên có than lửa vùi trong đó: Canơm ỉt apui;
-Bếp chính của chủ nhà: Canơm inã
-Các bếp của từng hộ gia đình con gái, cháu gái...:Canơm anảq
Khi các vách nhà, sàn nhà đã hoàn thiện, người Raglai còn ép các cây rừng có đường kính bằng hoặc nhỉnh hơn cổ tay của người lớn ở vách và sàn chắc chắn với nhau, tránh sự bung giật khi mưa gió, những cây này được gọi là chapac sàc.
Cột cái của nhà tổ mẫu gọi là vavuc sàc. Vavuc có nghĩa là cái cần, cái trụ vươn lên cao. Tại đây, người Raglai thường được tô vẽ các hoa văn hình học, hình chim cu, mặt trời, mặt trăng, các hoa văn trái mây như ở nỏ, gùi...các hoa văn này được vẽ bằng củ nghệ mài ra lấy màu vàng, màu trắng lấy từ vỏ sò, ốc, màu xanh lấy từ cây rừng, lá trầu... Khi làm một căn nhà, tất nhiên nhà nào cũng có cột cái, nhưng điều này không đồng nghĩa với nhà nào cũng là nhà tổ mẫu (sàc inã), cột cái của những căn nhà này chưa có thần linh, chưa có ông bà tổ tiên của họ trú ngụ vì chưa làm lễ tách nhà. Một cặp vợ chồng chỉ được phép làm lễ tách nhà khi đã hoàn thành các công việc theo tục lệ như sau:
*Phải làm lễ cưới phạt Cacaricho nếu trước đây họ chưa được làm đám cưới huaq vu theo tục lệ;
*Phải làm hoàn tất lễ đền ơn đáp nghĩa (Ia tisơu vilơu dada) cho cả bên cha mẹ vợ lẫn cha mẹ chồng;
*Phải hoàn thành lễ bỏ ma (Vidhi atơu) cho những người thân (cùng huyết thống của người vợ, người chồng) trong gia đình.
Sau khi đã xong các bước trên, vợ chồng phải cúng 3 con heo (một con cho cột cái nhà tổ mẫu cũ, một con cho cột cái tổ mẫu nhà mình -cột mới- và một con cầu cho vợ chồng sạch sẽ trước khi có nhà tổ mẫu chính thức). Nếu không hoàn thành theo tục lệ thì bất kỳ trong nhà có việc lớn việc nhỏ cũng phải mang sang nhà tổ mẫu của cha mẹ (hoặc ông dượng) để làm nhang mặc dầu hai vợ chồng có làm nhà lớn đến mức nào cũng mặc. Tục này hiện vẫn còn phổ biến tại các vùng người Raglai cư trú ở Khánh Hòa. Theo tục lệ, hàng năm (hiện nay có thể vài ba năm), con cháu Raglai trong dòng họ ở các nơi đều tụ tập về nhà tổ mẫu của mình (kể cả những người đã làm lễ tách nhà riêng, có cột cái riêng), Mọi người được mời ăn trầu, hút thuốc, uống chung với nhau ché rượu cần; giết heo gà ăn mừng để họ hàng con cháu nhận mặt nhau tránh trường hợp lấy vợ chồng lẫn lộn mà vi phạm luật tục - gađi gadha char panuãiq. Khi về thăm họ còn mang theo mâm thau nồi đồng để tặng chủ nhà tổ mẫu và cũng được nhận tặng vật của dòng họ (caya patang ga apoc pitìat).
Nhà tổ mẫu của người Raglai không phải là loại nhà chung của cả cộng đồng như nhà rông Tây Nguyên Trong các palơi Raglai từ trước đến nay không có nhà chung của cả cộng đồng mà chỉ là nhà của từng dòng họ, gia đình. Nhà tổ mẫu Raglai có ba chức năng cơ bản là: chức năng xã hội, chức năng tín ngưỡng và chức năng văn hóa.
Chức năng xã hội: Theo lời giải thích của các già làng Raglai (tuha), nhà dài Raglai thường là một gia đình lớn cư trú để đề phòng và tránh chuyện loạn luân có thể xảy ra giữa các thành viên nam nữ trong một gia đình; thứ hai là tạo điều kiện cho thanh niên trai tráng rèn luyện, học hỏi những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất để chuẩn bị cho việc lập gia đình; thứ ba là tiện cho việc luyện tập quân sự, tập trung các chiến binh Raglai để phòng thủ và chiến đấu chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài. Nhà dài tổ mẫu còn là nơi tiến hành các cuộc họp, các cuộc nghị sự của những người có vai vế trong dòng họ để quyết định các việc quan trọng liên quan đến ổn định trật tự và phát triển kinh tế của gia đình, của cộng đồng palơi. Chẳng hạn như việc dời palơi, dời nhà, sản xuất, chiến tranh, xử lý các vụ việc vi phạm luật tục... Đây cũng là nơi tiếp khách từ bên ngoài đến và khách luôn luôn được chủ nhân bố trí cho chổ ngủ ở gian chính, nơi trang trọng nhất nhà.
Chức năng tín ngưỡng: Nhà dài tổ mẫu là nơi trú ngụ của thần linh chung cả đại gia đình, dòng họ. Từ cột cái cho đến bếp nấu ăn, từ các dụng cụ thường dùng trong gia đình đến tên nỏ đi săn bắn...nơi nào cũng có các yàc ngự trị. Mái nhà là nơi giắt các gaituah- vật ở hồn người chết khi chưa làm lễ bỏ ma để tránh cho người chết lang thang không có nơi nương tựa. Đây chính là nơi tổ chức hầu hết các cuộc tế lễ của gia đình, trừ những cuộc lễ đối với cây trồng khi phát rẫy, tỉa giống được làm tại nương rẫy... nhưng khi thu hoạch lúa, ngô, khoai về hết thì cuộc lễ lớn nhất vòng đời cây trồng được làm trong nhà tổ mẫu. Nhà tổ mẫu là nơi linh thiêng, là biểu tượng cho quyền uy và sức mạnh của gia đình, dòng họ; là nơi cất giữ và trưng bày các linh khí như mala thần, chiêng thần, ché rượu thần và các đầu thú săn bắn được...
Chức năng văn hóa: Không gian của nhà dài tổ mẫu Raglai không chỉ trong nhà mà còn là không gian đằng trước, là nơi tiến hành một số sinh hoạt văn hóa chung sau mỗi cuộc lễ của gia đình. Trước sân nhà, trong các cuộc lễ lớn của mình, như lễ ăn đầu lúa mới (bơc kakìq), bỏ ma (vidhi atơu)... người Raglai vẫn làm các cây nêu trước nhà để tế lễ, múa mala và tổ chức các hoạt động văn hóa khác. Bên trong nhà, hàng đêm, bên bếp lửa bập bùng tiếng hát kể akhàt jucar của già làng kể cho con cháu nghe về những chàng trai cô gái Raglai tài giỏi, xinh đẹp luôn chiến đấu anh dũng để gìn giữ buôn làng; là nơi để các đôi trai gái tình tự bằng những làn điệu alơu, siri, ritu mượt mà thâu đêm suốt sáng...
Bên cạnh những chức năng cơ bản nói trên, nhà dài tổ mẫu Raglai mang những giá trị nhiều mặt như giá trị văn hóa, giá trị kiến trúc và giá trị nghệ thuật.
Giá trị văn hóa: Có thể tìm thấy nhiều yếu tố và biểu tượng là hồi quang của nền văn hóa Đông Sơn, văn minh Sa Huỳnh còn lưu giữ trong nhà dài Raglai. Trước hết là biểu tượng con thuyền. Theo người Raglai ở Khánh Sơn tỉnh Khánh Hòa cho biết, mái nhà truyền thống gọi là rugãq, họ xem mái nhà như thân của con thuyền úp chụp xuống. Theo ngôn ngữ Raglai, từ gãq còn có nghĩa là "băng qua, ngang qua, lội qua, xuyên qua"...tùy theo ngữ cảnh mà được hiểu các nghĩa khác nhau. Từ vị trí thuận lợi ở trên cao nhìn xuống một palơi Raglai, chúng ta có thể hình dung như những chiếc thuyền dài đang lướt giữa sóng nước là rừng cây bạt ngàn.
Bên trong ngôi nhà, các biểu tượng mặt trời, mặt trăng trên cột cái, trên các đồ dùng hàng ngày cùng họ lên nương lên rẫy; các gam màu đen trắng chủ đạo được tô vẽ trong nhà... các biểu tượng này phản ánh quan niệm về âm - dương, dấu ấn tín ngưỡng tô tem về nước, lửa trong vũ trụ quan của người Đông Sơn cổ đại.
Giá trị kiến trúc: Kiến trúc khung nhà dài của người Raglai nói riêng và của các tộc người Tây Nguyên khác nói chung thuộc loại kiến trúc độc đáo. Chỉ bằng các nguyên vật liệu tại chổ bao gồm gỗ, tre, lạt, dây mây, song... với các loại mộng, ngoãm đơn giản được khoét từ rìu, rựa, dao, phối hợp với nhau hợp lý, tạo kết cấu chịu lực tối ưu. Bộ khung nhà tưởng như mỏng manh nhưng chắc chắn, đủ sức chống chọi với nắng mưa, gió bão ở khu vực nắng nóng mưa nhiều của họ cư trú.
Giá trị nghệ thuật: Các nhà họa sỹ, nhà điêu khắc có thể tìm thấy ở nhà dài Raglai nhiều biểu tượng nghệ thuật vừa nguyên sơ vừa mang tính độc đáo. Đó là các hình vẽ, chạm khắc các loại chim thú, cỏ cây, mặt trăng, mặt trời, hình mặt người...tưởng chừng rất thô phác nhưng thật tinh tế, mang đậm tính nhân văn của chủ nhân là tộc người Raglai.
Ngày nay những ngôi nhà dài cổ truyền vẫn in đậm trong tâm thức của bà con dân tộc Raglai, và đây cũng chính là sản phẩm văn hóa chứa đầy ắp giá trị văn hoá truyền thống của họ, thấm đẫm tính cố kết cộng đồng, tính nhân văn. Tư duy về số lẻ của cư dân có loại hình văn hoá gốc nông nghiệp thấm đẫm trong nhà tổ mẫu (bậc thang, lớp sàn nhà), tên gọi mỗi kết cấu của căn nhà, tên gọi của chính căn nhà. Mỗi người trong dòng họ cùng chung sức chung lòng gìn giữ vavuc sàc (cột cái) linh thiêng như cây cột buồm của con thuyền ngày nào họ vẫn còn lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới của khối cư dân Nam Đảo.
TKH.
__________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
+PHAN ĐĂNG NHẬT 2005: Nhà Rông-nhà Gươl-Bài học về ứng xử văn hoá- In trong Tạp chí Dân tộc học số 4-2005(136), 49- 56.
+NGÔ ĐỨC THỊNH 2006: Văn hóa - Văn hoá tộc người và văn hoá Việt Nam. -H: NXB Khoa học Xã hội, 861 trang.
+TRẦN NGỌC THÊM 1996/2004: Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam. - Tp HCM: NXB Tổng hợp (tái bản lần thứ 4), 690 trang.