Nhiều tài liệu đã chứng minh người Raglai sống cận cư lâu đời với người Chăm, một tộc người đại diện cho một nền văn hoá mang đậm tính "biển" mà tổ tiên xa xưa và họ là "người Sa Huỳnh" đã sáng tạo nên nền văn hoá Sa Huỳnh cùng với văn minh Đông Sơn. Những bằng chứng khoa học khảo cổ, lịch sử đã cho rằng, dù sau này văn hoá của người Chăm và nhất là của các tộc người khác ở Tây Nguyên ít nhiều xa rời môi trường biển, nhưng những dấu vết về truyền thống văn hoá biển vẫn còn đậm nét. Trong báo cáo này chúng tôi không hề có ý định khẳng định người Raglai có nguồn gốc từ biển hay họ ảnh hưởng văn hoá biển trong quá trình giao lưu với người Chăm …Trong quá trình khảo sát, điền dã ở các vùng người Raglai cư trú: Huyện Khánh Sơn, huyện Khánh Vĩnh, xã Cam Phước Tây huyện Cam Lâm, xã Cam Thịnh Tây thị xã Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa và huyện Ninh Sơn, Bác Ái tỉnh Ninh Thuận. .. chúng tôi ghi nhận trong tín ngưỡng bản địa của họ có những dấu ấn như hồi quang của một yếu tố tự nhiên đã có thời kỳ gắn bó mật thiết trong đời sống tâm linh.
*Hệ thống thần linh
Người Raglai quan niệm thế giới của họ bao gồm thế giới của con người đang sống và thế giới của ông bà. Mỗi thế giới lại chia thành ba tầng: tầng trời, dưới mặt đất và tầng ở mặt đất, nhưng hết sức đơn giản.
+Tầng trên Trời đứng đầu là thần Mặt Trời (Putau ia huruơi), thần Mặt Trăng (Ia Vila), thần Tinh tú (Ia Pitùq), thần Mưa, sấm sét (saganã), chúa mẫu Không trung(Via Lawah), Thần sấm (Ru-uh ru-am grơm catal), thần chúa mẫu Lửa không gian (saganã Via Lùc), quanh Mặt trời có thần Rồng giữ cửa Mặt trời (Putau samagrãh muvãh nàc jàc ia huruơi hay còn gọi là Samagrãh samagrỉt rìq digơi)…
+Tầng mặt đất có các thần sông, biển (putau Tuwaq), thần Rừng (Yàc Dlai), thần núi (Yàc Chưq), đủ các loại thần xung quanh họ từ trong nhà ra đến rẫy nương…
+Tầng dưới Mặt đất đứng đầu là Putau Longca Longgadir (thần Lửa thiêng lòng đất), thần Mãng xà (Ching tar inã garai)…
Hình ảnh của biển được người Raglai đưa vào hệ thống thần linh qua các vị thần:
-Putau tuwaq, inã vròc: Vua thần sông biển, tổ mẫu thần rửa trôi những dơ bẩn tội lội
-Putau Ia inã chai: Vua thần nước tổ mẫu nuôi dưỡng vạn vật sinh sôi.
Trong thế giới tâm linh của người Raglai, thần biển (putau Tuwaq) cùng với thần đất, núi, rừng ở tầng mặt đất trong cõi trần gian và các vị thần khác ngự trị mang lại phúc lành hay gieo họa khi con người mắc lỗi loạn luân (arih agap)
Người Chăm từ xa xưa có nền kinh tế biển, do đó theo quan niệm của người Chăm thì cá voi (cá ông) chính là hóa thân của Po Riyak. Người Raglai có thể do không phải hằng ngày lênh đênh trên biển để đánh bắt nên đối với họ ở biển chỉ có những loài cá to, cá sấu, cá kiếm, các lòai rắn, thuồng luồng khổng lồ và sứa độc… (ula lidaq, ula lidong, icàt gijat/gigaq, icàt gilo, icàt yơu, icàt samãi, inã salec, inã gabãt/gabảt/gabat…). Người Chăm thờ rất nhiều thần, trong đó có thần Sóng Biển Po Riyak. Hiện nay, tại làng Mỹ Nghiệp (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) vẫn còn ngôi đền thờ Po Riyak và hàng năm đều tổ chức lễ hội, cầu mưa thuận gió hòa, biển yên sóng lặng…Người Raglai vẫn gọi thần sóng biển là Po Riya, vua thần biển khơi là Putau Tuwaq. Biển là nơi hội tụ của các con suối, dòng sông (phut tasìq ranỉq riya ), là mẹ biển (ia tasìq inã, ia daràq prong ranỉq riya).
*Thể hiện trong kho tàng ngôn ngữ dân gian
Hệ thống thần linh trong tín ngưỡng của người Raglai cũng như các tộc người khác ở Việt Nam, họ thể hiện thế giới quan trong thành tố văn hóa nhận thức qua kho tàng nghệ thuật ngôn từ của mình.
Biển đối với người Raglai là gốc (phut tasìq), biển không có nguồn như các dòng sông, như các con suối. Người Raglai vẫn cho rằng tất cả mọi con suối, con sông đều đổ về biển, bởi vậy biển là mẹ (ia tasìq inã, ia daràq prong ranỉq riya). Gốc của biển là nơi giáp mối của sông ngòi (phut tasìq ranỉq riya ), nơi ấy có chúa thần mẫu đang ngày đêm khai thông cống rãnh để gìn giữ cho con cháu trần gian không bị ngập lụt bởi biển dâng (muvah jiap vusaq langã/langữ, muvah langã muvia valah). Trong thành ngữ Raglai có những câu nói về sóng biển và sóng của những dòng sông: “Biển đánh sóng, dòng sông đánh cuộn” (Ia tasìq poh pariỳaq ia daràq poh pavlung), “Nước biển dâng trăng tối, trăng sáng biển dâng ban ngày” (Ia tasìq angar ia vilàt đìq malap, canap ia vilàt đìq huruơi), “Gốc nước biển bao la, nước biển mênh mông, nước biển tối tăm mịt mù” (Phut ia tasìq dil ia tasìq samut/samup)…
Người Raglai cho rằng dưới lòng biển cả có mạch nước hay còn gọi là lỗ rốn biển (ia tasìq dil samil samup/samut) đổ ra đất bằng và thông đến trời xanh. Khi con cháu trần gian mắc tội loạn luân sẽ tạo ra rác rưởi lấp lỗ rốn biển gây ra ngập lụt, tạo ra nạn hồng thủy như trong truyền thuyết Cơi Masrĩh Mỏq Vila. Có thể khẳng định rằng bất kỳ người Raglai nào cũng tin Cơi Masrĩh Mỏq Vila là nhân vật có thực, là ông bà tổ mẫu của họ và những người Raglai chúng tôi phỏng vấn đã đưa ra những “bằng chứng” như dấu chân của hai ông bà trên một tảng đá ở xã Sơn Bình huyện Khánh Sơn, khi hai người gánh đất đá chống chọi lại cơn hồng thủy; như đá cánh diều ở đỉnh núi Cơranóa (xã Sơn Lâm huyện Khánh Sơn tỉnh Khánh Hòa); địa danh Hòn Dung của một ngọn núi ở thôn Hòn Dung thị trấn Tô Hạp huyện Khánh Sơn…a dam caya) và sau đó chính biển giúp cho người Raglai hồi sinh, tạo ra người Raglai mới thông minh hơn, tài giỏi hơn qua bàn tay của Cơi Masrĩh Mỏq Vila. Có thể nói đây chính là dấu ấn tín ngưỡng về biển đầu tiên đối với người Raglai trong kho tàng văn học dân gian của họ. chính biển gây tai họa giết chết con cháu trần gian, con trai dòng đời
Không chỉ dừng ở đó, cũng như tín ngưỡng phồn thực của người Kinh được thể hiện trong dân ca, truyện cổ tích…các vị thần biển hoặc các nhân vật liên quan đến biển xuất hiện gần như tất cả các akhàt jucar Raglai (truyện thơ). Mặc dù không cần tính toán ở mức độ chính xác , nhưng qua sử thi akhàt jucar Raglai Udai Ujàc cũng có thể thấy được sự xuất hiện của sông to biển lớn vào khoảng trên dưới 2% tác phẩm.
Trong các bản thảo sử thi akhàt jucar Raglai chúng tôi vừa hoàn thành có thể thống kê được số lần xuất hiện của biển lớn (tasìq), con sông lớn (kròc) như sau: Awơi Nãi Tilơr: 160 lượt và vua thần biển xuất hiện đến 433 lượt trong 54 khúc hát; Amã dam CuvauVongcơi: 104 lần /24 khúc hát; Amã dam ChiSa: 63 lượt/ 21 khúc hát.
Thần biển (putau Tuwaq) trong các akhàt jucar Raglai ban đầu luôn làm khó dễ các nhân vật chính trong câu chuyện như hợp quân cùng với Hulơu Valàc để đánh chàng trai Raglai Ujàc (akhàt jucar Raglai Udai-Ujàc), bắt nàng Tilơr cống nạp trầm hương bằng đùi, ngà voi cao bằng đầu (akhàt jucar Raglai Awơi Nãi Tilơr). Nhưng chính sau này lại gíup cho họ đánh thắng quân xâm lược Cur, Jawa hay đánh bại kẻ thù hung ác Hulơu Valàc. Thần biển kết thân với người Raglai bằng cách cho con trai của mình (Jiphàc trong Udai-Ujàc), ccông chúa con của mình là hai nàng Sa-ien, Matien cưới những các cô gái, các chàng trai chiến binh Raglai dũng cảm tài ba. Vợ của putau Tuwaq cũng chính là vị nữ thần Via Valìq dạy cho người Raglai biết đập bông dệt vải.
Những chàng trai, cô gái Raglai được sanh ra ngay trên bờ biển, cạnh những con sóng bạc đầu luôn luôn trở thành con người tài giỏi. Chúng lớn nhanh như cây bí đỏ ban đêm, lớn như cây bầu ban ngay. Không chỉ giúp cho các chiến binh, giúp cho tất cả mọi người rửa hết mọi chuyện ô uế, tị hiềm hãm hại, nước sông, nước biển cũng còn giúp cho chú trâu thần cởi lốt hoá thành người (akhàt jucar Raglai Amã CuvauVong cơi). Con sông thần lớn cũng chính là nơi chàng trai Raglai ChiSa gặp cô gái con những vị thần linh để kết thành đôi lứa; Những đám cỏ non, những cánh đồng bằng phẳng xanh rì trong các chuyện cổ akhàt ter, các thành ngữ Raglai đều được đặt trên những con đường ra biển lớn sông to. Truyền thuyết Raglai kể lại núi cô Tiên (phía Bắc thành phố Nha Trang) nằm xỏa tóc đầu hướng về núi, chân thả xuống biển chính là hình ảnh của nữ thần Tilơr chận đường đàn voi thần để xin ngà cống nạp cho vua thần biển putau Tuwaq, tảng đá lớn nơi nàng Tilơr giặt giũ áo bào chiến trận là Hòn Chồng ngày nay ở tỉnh Khánh Hoà (Phường Vĩnh Hải-Nha Trang-Khánh Hoà).
Trong một câu chuyện cổ Raglai đã kể lại rằng loài cây song mây không bao giờ vượt quá ngọn cây. Nếu cao vượt ngọn cây trong rừng cây song mây đó sẽ chết vì lúc bấy giờ chúng trông thấy biển nên buồn nhớ biển mà chết khô (!). Người già Raglai còn kể rằng loài vượn (kuat), dọc vọc (hawa), đười ươi (prưng), tinh tinh (salòc) trước đây ở các hòn đảo ngòai biển, chúng vào sinh sống ở đất liền là do lòai khỉ lừa chúng qua. Do đó bọn vượn, dọc vọc có tiếng hót dài và rất lớn vì chúng nhớ đến biển đảo, nơi cư trú ngày xưa của chúng mà nay không thể nào trở về được nữa (kra pagila mãi ngãq prưng cading salòc Ja-ơi sa-uat cuaq majua cahnal lagar dlai buat ajuaq tasìq phut tasìq ranỉq riya lapaq lapung hawai tùat).
Ngoài hai thể loại văn học dân gian nói trên, người Raglai cũng có không ít trong những câu thành ngữ, ca dao, dân ca lưu truyền trong dân gian mang yếu tố biển trong tín ngưỡng của mình. Khi cất nhà để ở, người Raglai dạy con cháu phải làm nhà như thế nào để đầu nằm gối về biển, chân gác lên núi:
“Acoq đal tasìq, tacai trùc chưq” (Đầu gối biển, chân gác núi)
Nếu không thực hành như vậy mà làm ngược lại hoặc chệch hướng sẽ bị cọp bắt (?).
Nói về ngôi nhà tổ mẫu của mình (nhà dài-Sàc inã), người Raglai ở Sơn Bình huyện Khánh Sơn tỉnh Khánh Hòa có câu:
“Viluai/ riluai vavuc tanruaq rugaq atơu”
*Trong một số nghi lễ vòng đời
Trong một số nghi lễ cầu cúng vòng đời của người Raglai ở Khánh Hòa, một vật gần như bắt buộc phải có đó là các con tàu (ahòq). Đây chính là biểu tượng văn hóa mang yếu tố biển rõ rệt nhất của người Raglai. Ahòq có mặt ở các nghi lễ sau:
Trong lễ cải sanh;
Trong ngày giỗ người chết (khi chưa làm được lễ bỏ ma) và ngày cúng tổ tiên ông bà (mủq cơi);
Lễ cúng thần thuế;
Lễ cầu cúng tạ ơn;
Trong nghi lễ cầu xin được mùa;
Lễ cúng tránh tai họa do kiếp trước bị yểm bùa độc;
Lễ cúng cho những người chết vì tai nạn, hổ vồ, cây đè;
Lễ bỏ ma.
Từ ahòq không riêng để chỉ con tàu thuyền mà còn có nghĩa là tàu bay(!). Khi được chúng tôi phỏng vấn, những người Raglai ở xã Sơn Trung huyện Khánh Sơn tỉnh Khánh Hòa vẫn gọi tên bằng tiếng Việt đối với lễ vật này là tàu bay, nhưng ở xã Sơn Bình, Sơn Hiệp, Thành Sơn huyện Khánh Sơn thì lại nói nó là con tàu. Quan sát những cuộc lễ của họ như: lễ cầu an, cúng nhang (yàc), tạ ơn…chúng tôi thấy sau khi cũng bái xong, trên ahòq để một hay ba ly (họ cắt một đốt ngắn lồ ô tạo thành ly) rượu trắng, vài miếng trầu cau, có thể bỏ thịt, cơm trên đó…người Raglai mang ahòq ra để ở ở sông, bờ suối thả cho trôi theo dòng nước. Khi đi điền dã ở xã Thành Sơn, chúng tôi đã được thông tín viên là ông Cao Xà Buôn cho biết rằng: Đối với người Raglai, khi trong nhà có người bị tai nạn như cây đè, cọp vồ, chết bất đắc kì tử, chết do nguyên nhân nào đó mà không phải do già yếu… họ đều làm con tàu ahòq thả xuống suối cùng với lễ vật để cầu mong nhang (yàc) đừng làm hại người khác trong gia đình nữa. Con tàu sẽ chở lễ vật xuôi về biển, về với ông bà.
Do tính chất và mức độ quan trọng của từng cuộc lễ mà ahòq ở các lễ nghi được thực hiện bằng những vật liệu khác nhau. Trừ mô hình con tàu trên mái nhà mồ, còn hầu hết ahòq đều được thể hiện bằng vật liệu sẵn có quanh khu vực ở của người Raglai như gỗ nhẹ, tre, nứa, lồ ô; thân, bẹ, lá cây chuối…cắt ghép mà tạo nên các con tàu.
Ahòq trong các cuộc lễ của người Raglai có thể khái quát 4 kiểu cơ bản:
Kiểu thứ nhất: Con tàu hai tầng (ahòq lơu)
Kiểu thứ hai: Con tàu có mái nhà (ahòq vidhùc)
Kiểu thứ ba: Con tàu thông thường (ahòq rah rai)
Gồm 2 loại hình thuyền (galai) và hình chữ nhật (hoặc hình vuông).
Kiểu thứ tư: Mô hình ahòq trên mái nhà mồ.
Trừ con thuyền trên mái nhà mồ (kagor hay kagau), các ahòq khác trong những cuộc lễ của người Raglai đều có đặt lễ vật lên trên. Lễ vật trên các con tàu thông thường là phải theo lời khấn của chủ nhà khi cầu xin như thế nào thì cúng tạ ơn như thế ấy. hoặc cúng cho vị thần nào, người được cúng là ai hoặc trong nhà có bao nhiều người cần phải tạ lễ…Lễ vật không phải như lời khấn mà chỉ mang tính tượng trưng. Con trâu được thay bằng nải chuối (trái chuối như những cánh sừng cong quặp của con trâu), trầu cau là phải có phải có; ché rượu cần thay bằng một chén rượu cần (chén là một đốt nhỏ lồ ô cắt ra ), gà (hay trứng gà) thay bằng trái cau, trầm hương , kỳ nam được thay bằng củ nghệ, vịt thay bằng đôi đũa…Tuy chỉ là tượng trưng nhưng số lượng là phải đủ. Một lá trầu thay bằng một liếp, hai con gà thay bằng hai quả cau…Ngòai ra người ta còn dùng gỗ mềm đẻo khắc hình cá lóc (khi cúng yàc sông suối), để tạo hình cá lóc (lingĩa vư), cô gái, chàng trai (cumơi dam sam dara) theo hầu các nhang độc nhưng đầu và chân nhọn, lấy củ nghệ (cunhỉq) tô vẽ (hình dưới), những vật này bỏ trên khay (ama) để cùng với ahòq cúng Chúa thần bà khổng lồ, thấp lùn, vua thần độc chém bổ như nước (Cơi pu vuriap pumủq viriơm, putau salah vlah riya. Các vật này sẽ hầu hạ, đội thần đi (đua vanãh), có như thế chủ nhà và người thân mới không còn liên can (jỉt sinhuơ), không còn bị salah (thần độc) hãm hại.
Sau khi làm nhang xong, các con tàu cùng với các lễ vật được đưa ra bờ sông bờ suối hoặc để ở hướng mặt trời mọc cạnh nhà. Có thể nói các lễ vật để cúng trên các ahòq tuy chỉ là tượng trưng nhưng người Raglai vẫn tin tưởng chính các con tàu đó sẽ về đến thế giới biển trời xa xăm, đến thế giới của tổ tiên, của ông bà của mình. Nhận được lễ vật của mình, chắc chắn ông bà tổ tiên sẽ giúp đỡ, che chở cho họ có một cuộc sống yên lành.
Về hình ảnh con thuyền trên mái nhà mồ trong lễ hội bỏ ma (Vidhi atơu ) của người Raglai đã có rất nhiều bài viết được đăng tải trên Internet, trên các tạp chí…, ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài nhận xét mà chúng tôi đã khảo sát trong những cuộc lễ bỏ ma và hình ảnh con thuyền trên mái nhà mồ ở huyện Khánh Sơn tỉnh Khánh Hòa.
Người Raglai với quan niệm rằng: Khi một người chết, hồn vía của họ sẽ thất lạc, bơ vơ nếu chưa làm lễ bỏ ma được. Vì vậy họ có tục gọi hồn người chết nhập vào một vật nào đó trước khi làm lễ mãn tang. Một trong những nghi thức quan trọng của người Raglai trong nghi lễ vòng đời chính là lễ bỏ ma. Mọi nghi lễ, quan niệm nhân sinh và thế giới quan của người Raglai thể hiện đậm nét trong lễ hội này, và chúng được kết tinh trong vỏ vật chất của lễ bỏ ma chính là nhà mồ (vanẽq atơu).
Thời gian của lễ bỏ ma tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của từng gia đình. Có thể là 1,2 năm, thậm chí nhiều năm sau, khi người thân của người chết có đủ “năng lực” sắm sửa các lễ vật. Để lễ bỏ ma tổ chức đầy đủ, trọn vẹn theo đúng phong tục, gia đình người chết phải mời mọi người trong palơi, mọi người trong họ hàng với nhiều gà, heo, rượu thậm chí cả trâu, bò.
Sau lễ bỏ ma, linh hồn người chết hoàn toàn tách khỏi mọi ràng buộc của người sống, người chết thực sự đi đến “quê hương mới” của mình, còn người sống được “giải phóng” thực sự mọi liên hệ với người chết. Nói cách khác, lúc này người chết chuyển sang trạng thái sống khác, không liên hệ gì với người thân nữa. Do vậy người Raglai không có tục thờ cũng hay làm bàn thờ người chết sau lễ bỏ ma. Một số tài liệu cho rằng sau khi làm lễ bỏ ma xong, hồn mà về thế giới ông bà và được ông bà cho phép quay trở lại đầu thai kiếp khác. Trong quan niệm của họ thì không phải vậy. Thế giới ông bà họ đang sống cũng không khác gì thế giới trần gian, ông bà cũng phải làm việc, sản xuất, chăn nuôi và sinh sống (!), nhưng trái ngược lại với thế giới trần gian. Sau khi được ahòq chở về với ông bà, vungã (hồn) người chết sẽ được Aluah (thượng đế) ban cho một thân xác mới ở kiếp khác. Do đó người nào tài giỏi thông minh, nhanh nhẹn hay chậm chạp, đần độn đều không phải do người đó tự học tập, từ rèn luyện mà do thượng đế ban cho như thế(?).
Ahòq trên mái nhà mồ có hai loại: Kagor/kago và kagau- một số người do không có điều kiện điền dã hay chưa đủ cứ liệu vẫn lầm tưởng chỉ có một loại ahòq trên mái nhà mồ là kagor mà thôi- Kagor và kagau có những điểm khác nhau ở cách thức lễ và cấu trúc nhưng đều với mục đích đưa linh hồn của người chết về thế giới của ông bà.
Nhà mồ được dựng trước ngày lễ bỏ ma nhưng khi làm lễ tại mồ mới dựng cột đầu và cột chân. Mái nhà mồ chủ yếu lợp bằng lá mây hoặc bằng tranh (ngày nay một vài nơi người ta lợp bằng tonle hoặc bằng ngói). Để lợp mái nhà ở, người Raglai đan thành từng tấm tranh gọi là manham panãq ralàc, đối với tranh lợp nhà mồ không đan thành từng tấm mà đan quây tròn thành 2 đến 3 lớp do mái nhà mồ không chia hai mái như nhà ở (sàc), tranh đan trên nhà mồ được gọi là cachar ralàc atơu/ rugaq vanẽq atơu.
Mái nhà mồ được làm ở bên dưới trước. Chung quanh là 4 miếng ván bằng gỗ mềm màu trắng (thường làm bằng cây gòn rừng), ở hai cạnh bên có hai miếng ván để úp tạo chân đế gác một khúc cây cũng bằng loại gòn được đẽo hình trái bầu. Phía trên trái bầu đục một lỗ sâu để cắm một cọc cao gần một mét. Ở phía dưới cây cọc khỏang 15 đến 20 phân người ta khoan hai lỗ để xỏ hai cây le hoặc thanh lồ ô, tre nhỏ qua, hai đầu cây le đó được uốn cong xuống gắn vào 4 miếng ván ở hai bên tạo ra khung mái nhà mồ. Sau khi có khung, mọi người cột thêm những đường vòng chung quanh bằng tre, nứa hoặc lồ ô và tranh được đan ngay vào mái (tương tự như cách làm nón lá của người Việt).
Trường hợp nhà mồ làm thuyền Kagor thì phần từ vị trí xỏ các cây làm khung mái trở lên của cây gắn từ trái bầu mẹ chính là trụ để gắn kagor. Lúc này tất cả các cột đều dựng sẵn nhưng tuyệt đối hai cột đầu (acòq) và cột chân (tacai) vẫn chưa được dựng. Kagor được làm tại nhà, trước khi rước kagor từ nhà ra, tang chủ phải cúng cho kagor một con heo. Mang ra đến nhà mồ rồi nhưng chỉ được đặt một bên nhà mồ, kagor chỉ được phép đặt trên mái nhà mồ sau khi cúng một con heo cho cột đầu và cột chân, dựng xong hai cột này xong rồi mới đặt kagor lên mái.
Đối với kagau thì cách thực hiện có khác so với kagor. Sau khi làm khung và lợp tranh cho mái nhà mồ, người Raglai làm luôn con thuyền trên mái. Hình dáng của kagau gần như hai sừng trâu lớn và nối chặt với trụ từ trái bầu mẹ bên trong mái chứ không rời và để lắp sau như kagau. Cây trụ ở chính giữa mái nhà mồ chỉ nối từ trái bầu mẹ lên phía trên chứ không chống xuống đất như cột cái nhà sàn. Nguyên cả mái nhà mồ và kagau sau khi làm xong để tại mộ chứ không mang về nhà để làm thủ tục rước như kagor. Ở đây lễ vật được giảm 01 con heo vì không phải cúng cho kagau tại nhà như kagor.
Không như các loại ahòq ở các cuộc lễ khác, để tiến hành làm thuyền kagor hay kagau trên mái nhà mồ của người thân, gia chủ thường phải nhờ đến bàn tay của nghệ nhân Raglai. Đây là một kiểu ahòqahòq khác thì lễ vật được để lên trên mặt, ahòq khác đứng ở vị trí xuôi và đặt tại bờ sông bờ suối chỉ một hai ngày là hỏng ngay. Kagor lại được đặt trên nóc nhà mồ trong cuộc lễ chia tay vĩnh viễn của người chết với người thân để về thế giới ông bà tổ tiên. Mũi và đuôi con thuyền trang trí hình rồng, rắn garai. Cột buồm dựng ngược từ phía đáy thuyền lên với các hình trang trí hoa văn (chil paliưq) mặt trời, mặt trăng, sao, chim cu, trái bầu. hình thoi…Màu sắc trên thân tàu và cột buồm, trên các vật trang trí được nghệ nhân sử dụng màu sắc từ lá trầu giã ra trộn với củ nghệ, màu sắc từ đá, sỏi, cây củ lấy trong rừng, trên núi. đặc biệt từ tính chất quan trọng của nó đến chất liệu và vị trí. Các
Viếng một lễ bỏ ma của người Raglai chúng ta lại thấy hình ảnh chiếc thuyền Kơgor trắng được tô điểm hoa văn ngự giữa nóc nhà mồ, thật nhỏ bé so với thiên nhiên hùng vĩ giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp. Theo quan niệm của người Raglai, con thuyền trắng này sẽ đưa linh hồn của họ trở về lại nơi xuất phát của cha ông, của tổ tiên ngày trước.
Trong những năm gần đây, lễ hội bỏ ma đã được khôi phục lại ở một số bản làng Raglai cùng với việc triển khai các ngày hội văn hóa của các dân tộc miền núi do chính quyền các cấp tổ chức. Việc các gia đình dù giàu hay nghèo, dù lễ vật là trâu bò hay con gà, dù làm nhà mồ to đẹp, nhiều tượng nhà mồ hay chỉ là nhà tranh đơn sơ nhưng họ sẽ thấy thanh thản, tâm hồn được cởi mở vì đã làm tròn bổn phận đối với người quá cố, đối với ông bà tổ tiên.Người Raglai thường dùng thành ngữ: “ahòq tanruaq rugãq atơu” hay “vòc tanruaq rugãq vanẽq atơu”. Có nghĩa là con tàu quan tài hình thuyền xuôi trên mái nhà mồ có hình dáng con thuyền úp chụp.
Với tư cách là sản phẩm tinh thần của một tộc người, những phong tục, lễ nghi trên bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố lành mạnh. Lẽ tất nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể của họ, những quy định ở một số tục lệ không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng, dù ở đâu, dù bất kỳ lúc nào những yếu tố lành mạnh của các lễ nghi vẫn là cơ bản. Sự lành mạnh đó, không phải lúc nào cũng xuất hiện một cách rõ ràng, cụ thể trước nhà nghiên cứu. Nhiều khi nó bị phủ một màu sắc mê tín thần bí. “Chỉ cần gạt bỏ màu sắc mê tín thần bí đó, lập tức chúng ta nhận thấy cốt lõi, hiện thực, duy vật của hiện tượng”. Có thể đơn cử những ahòq trong các cuộc lễ hay thuyền kagor trên mái nhà mồ của người Raglai trong lễ bỏ ma…đó chỉ là biểu tượng của thế giới tự nhiên, cuộc sống xung quanh họ hiện tại hay nằm sâu trong tâm thức của họ đã tạo nên biểu tượng văn hóa với mong muốn được sự ấm no, an lành và hạnh phúc.
Trần Kiêm Hoàng
TÀI LIỆU THAM KHẢO