1. Người phụ nữ trong quan hệ với cộng đồng
Hình tượng người phụ nữ trong sử thi kế thừa từ thể loại thần thoại
Cơ sở xã hội lịch sử của thể loại thần thoại là cuối kỳ đồ đá, thời đại hưng thịnh của các thị tộc mẫu hệ. Quan hệ hôn nhân quần hôn và phương thức tổ chức đời sống kiểu thị tộc đã xác lập vai trò quan trọng của người phụ nữ trong mọi lĩnh vực: con cái mang họ mẹ, người phụ nữ phân công lao động, phân chia tài sản, làm chủ bếp lửa và các hình thức tế lễ… Bên cạnh đó, sự trân trọng của cộng đồng về quyền năng sinh sản càng củng cố địa vị của người phụ nữ trong xã hội. Điều này hiển nhiên chi phối tư duy sáng tạo nghệ thuật của con người thời đại thần thoại. Nữ thần chiếm lĩnh vị trí chủ đạo trong thần điện. Không chỉ đông đảo về số lượng, những nữ thần còn thể hiện sự lấn át về quyền năng với các nam thần. Họ thường chiến thắng trong các cuộc thi tài...
Người phụ nữ, nữ thần là biểu tượng của sự sáng tạo - không chỉ kiến tạo trời đất, sáng tạo các giá trị văn hóa, điều quan trọng nhất là sáng tạo, sinh sản ra con người.Chính thời đại mông muội của thần thoại, với số lượng người ít ỏi, cùng với những nguy cơ diệt vong, đem đến cho con người nhận thức về giá trị bản thể của mình. Vì vậy, điều làm nên sự thán phục của cả thế giới thần thánh và con người với các nữ thần đều nằm ở quyền năng sinh sản. Người phụ nữ thần kỳ trong thần thoại luôn được tôn vinh là bà mẹ xứ sở, trở thành biểu tượng của vùng đất nhất định với sự phóng đại, kỳ vĩ bộ phận sinh thực khí và sức sinh sản. Chẳng những thế, họ còn ngang nhiên phô bày nét đẹp, sự to lớn khác thường của cơ thể mình trước tạo vật và cả thế giới...
Người phụ nữ tượng trưng cho đất đai. Chế độ mẫu hệ đã xác lập địa vị của người phụ nữ là người làm chủ vùng đất. Người chủ với tư cách người khai phá, người tạo lập và chủ động mọi hoạt động trên vùng đất của mình. Trong thần thoại Sự tích cây lúa, người Mơ nông sáng tạo thần Ka Lôm - có lẽ cũng là dạng khổng lồ. Bà sinh ra từ trong lòng đất, dạy dân làm ra lửa. Bà lấy từ trong lòng mình ra mọi thứcho con người. Chỉ riêng bà Ka Lôm có muối vì bà lấy từ trong người ra (1). Bà Đà, Nữ Oa trong thần thoại Việt cũng thuộc cùng loại hình biểu trưng này.
Trong mối quan hệ với cộng đồng, người phụ nữ tượng trưng cho quyền lực - mẫu quyền - với đặc tính là chủ, bề trên, điều khiển và chi phối thế giới. Ở hầu hết các tộc người ở Tây Nguyên, trước 1945 đang ở trong giai đoạn cuối công xã nguyên thủy vẫn tồn tại hình thức mẫu hệ trong xã hội. Theo đó, người phụ nữ làm chủ gia đình, chủ nhân của bếp lửa, là người phân công lao động, thực hiện một số nghi lễ quan trọng, con cái mang họ mẹ… Trong thần thoại hình tượng mẫu Âu Cơ cũng có ý nghĩa như vậy. Ngoài việc sinh ra bọc trăm trứng, tổ tiên của người Việt, mẹ Âu Cơ còn dạy dân cấy lúa, làm lụng… Hình tượng bà mẹ sáng tạo thu hút trong mình nó những chiến công vĩ đại của thời đại. Trong tương quan với nam thần, và cả với những thế lực khác, phụ nữ luôn chiến thắng: Nàng Âu Cơ đưa các con về vùng núi cao, gắn với sức mạnh của những bộ lạc nơi đây và sau đó, người con trai cả của bà lên ngôi vua - lấy hiệu là Hùng Vương. Như vậy, đó là dấu ấn rõ nét cho thấy quyền thừa kế theo dòng họ mẹ đã được duy trì và cũng là chấm dứt ở thời đại Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Chủ đề này được tiếp nối trong truyền thuyết thời kỳ đầu. Đó là những người phụ nữ đầy quyền lực, tài năng, khí phách, mở đầu cho truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc: Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Nội dung, ý nghĩa của các hệ thống truyền thuyết này đã được bàn đến nhiều, chúng tôi chú ý đến phương diện quan hệ của họ với cộng đồng so với những những người đàn ông đương thời trong tư duy của dân gian. Trong những trường hợp này, với cộng đồng, người phụ nữ rất mạnh mẽ, vượt lên trên đàn ông, khẳng định sức mạnh tuyệt đối của mình, họ mang bóng dáng của những nữ thần, bà mẹ xứ sở trong thần thoại.
Truyền thuyết về Hai Bà Trưng kể rằng có hàng trăm nữ tướng đi theo Hai Bà đánh giặc, thậm chí có những người đàn ông cũng giả gái để đi theo cuộc khởi nghĩa đó. Cách tư duy của nhà nho (sử gia) đã đi ngược với quan điểm của truyền thống dân gian đã không chấp nhận điều đó, đến nỗi sử thần Lê Văn Hưu cũng phải ngậm ngùi đưa ra lời bàn: “Bọn đàn ông chỉ biết cúi đầu bó tay, làm thần bộc cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai nữ họ Trưng là đàn bà ư? Ôi, có thể gọi là tự bỏ mình vậy”(2).
Lời thề của Hai Bà trong ngày tế cờ khởi nghĩa, được Đại Nam quốc sử diễn ca ghi lại, vốn vẫn được hiểu là Hai Bà luôn đề cao trung nghĩa với nước, đặt nỗi nhục mất nước trên thù nhà như nguyên tắc xây dựng nhân vật lý tưởng trong truyền thuyết giai đoạn sau. Nhưng hình như trong đó có hàm ý rằng: với người phụ nữ thời đại đó, gia đình (cụ thể là người đàn ông, người chồng) không phải có vị trí hàng đầu.
Và thật ngạc nhiên, lời của Bà Triệu - người phụ nữ tiếp theo trong lịch sử dân tộc đứng lên chống giặc sau Hai Bà Trưng dường như cũng một ý như vậy: “Tôi muốn cưỡi con gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,… chứ không chịu làm tỳ thiếp người”. Một chi tiết đáng lưu ý cho thấy tính thần thoại kỳ vĩ qua hình tượng Bà Triệu là cảnh ra trận: tương truyền Bà Triệu vú dài ba thước, mỗi khi ra trận phải vắt qua vai. Đó là chi tiết “dường như thừa” trong việc xây dựng hình tượng nhưng lại cho thấy sự ảnh hưởng đậm nét của tư duy thần thoại và Triệu vương chính là bóng dáng của bà mẹ xứ sở, người đàn bà khổng lồ về vóc dáng và khả năng sinh sản trong thần thoại.
Đó là những tia hồi quang của lịch sử cho thấy địa vị cao cả, hàng đầu của người phụ nữ trong quan hệ với cộng đồng, đặc biệt là trong tương quan với vị trí người đàn ông trong xã hội.
Sử thi miêu tả người phụ nữ theo khuynh hướng kế thừa và phủ nhận các thể loại trước đó
Ở thời đại sử thi, trong quan niệm của cộng đồng, người phụ nữ không còn giữ vị trí hàng đầu, quan trọng bậc nhất nữa, thậm chí một vị trí ngang hàng với người đàn ông cũng không thể tồn tại. Thời đại sử thi mà Mác gọi là thời đại chế độ quân sự dân chủ, Ăngghen gọi là thời đại anh hùng, là thời đại của các thị tộc và bộ lạc, đồng thời diễn ra quá trình đấu tranh nhằm tách - nhập liên tục các bộ lạc để thành các liên minh, nhà nước đầu tiên. Cùng lúc này, chế độ mẫu hệ nhường chỗ cho chế độ phụ quyền… Lúc này sự sùng bái của nhân loại với tự nhiên đã nhường chỗ cho sự sùng bái tổ tiên thị tộc và nhân vật anh hùng của bộ lạc (3).
Mặc dù, người phụ nữ vẫn còn được tôn trọng nhất định vì những giá trị truyền thống và tạo nên sức ảnh hưởng của nó trong thời đại sau nhưng địa vị của họ đã mất dần sự quan trọng và chi phối xã hội. Ví dụ với người Ê đê, mặc dù vai trò của người phụ nữ trong gia đình có quan trọng đến mấy thì điều rất đáng chú ý là nhà vẫn đặt dưới quyền cai quản của một trong những thành viên nam khua sang có thể dịch là người cao niên, đúng hơn là chủ, thường là chồng của bà cả của dòng cả phân nhánh trong gia đình. Ở xã hội Mơ nông cũng như vậy, con cái trong gia đình đều chịu sự chỉ huy của một bà tổ mẫu và mỗi buôn làng đều được tổ chức theo hình thức nguyên tắc thị tộc mẫu hệ nhưng dần dần những quan hệ huyết thống đó cũng bị nới lỏng. Và bản chất của xã hội mẫu hệ là mẫu quyền về hình thức nhưng là phụ quyền trên thực tế, bởi những việc trọng đại, người đàn ông phải trực tiếp quyết định, trực tiếp thực hiện.
Ngay cả trong hệ thống luật tục, cộng đồng vẫn dành những sự ưu ái nhất định với người phụ nữ như chị ta có quyền đi hỏi chồng, được lấy chồng khác sau khi làm lễ bỏ mả cho người chồng đã chết… Nhưng nhìn chung dưới góc độ giới tính, họ không còn giữ được quyền lực tối cao, chi phối người đàn ông nữa. Một người phụ nữ có quan hệ với đàn ông khác chồng mình, hay trót mang thai trước hôn nhân đều phải chịu sự trừng phạt...
Địa vị của người phụ nữ không phải đến khi chuyển hẳn sang thời đại sử thi thì mới phai nhạt, mà đã mất dần ngay ở trong thời kỳ thần thoại hưng thịnh. Người phụ nữ - nữ thần trong thần thoại được thay thế dần bằng các nam thần. Thần Zớt ngự trị trên đỉnh Olympo, đầy quyền uy với thế giới thần linh, kể cả uy quyền trong hôn nhân, quan hệ dục tình và sinh sản. Như vậy, ngay trong lòng xã hội mẫu hệ, vị thế của người phụ nữ đã không ngừng vận động.
Chính vì thế, ở thể loại sử thi, tuy dấu ấn của tổ chức thị tộc vẫn còn rơi rớt, còn những ảnh hưởng nhất định nhưng đã có những thay đổi. Người phụ nữ vẫn tiếp tục được miêu tả nhưng không còn giữ vị trí quan trọng như bản thân nó trong các thể loại trước. Đó là cách thức sử thi giữ lại những hình thức mô tả chung về người phụ nữ nhưng đã thổi vào cái xác đó tinh thần của thời đại. Điều này là hệ quả tất yếu của sự thay đổi toàn diện đời sống xã hội lịch sử của nhân loại, trong đó những luật lệ của thời đại mới không còn bảo vệ người phụ nữ nữa.
Như thế, người phụ nữ không phải là nhân vật trung tâm của sử thi. Vị trí thủ lĩnh của cộng đồng được chuyển sang những người đàn ông đầy sức mạnh, với lý tưởng và nhiệm vụ bảo vệ, phát triển, đưa cộng đồng tiến lên. Do đó, hình tượng thu hút trí tưởng tượng của tác giả dân gian và cũng tạo nên sức hấp dẫn với tất cả mọi người là người anh hùng của cộng đồng. Trong khoảng trên 30 sử thi Mơ nông, không có tác phẩm nào lấy người phụ nữ làm nhân vật chính. Sự có mặt của họ chỉ làm nền cho các nhân vật anh hùng, những hành động của họ chưa bao giờ chi phối và ảnh hưởng đến bước tiến của cộng đồng. Chỉ có duy nhất một trường hợp trong Tiăng lấy gươm tự chém kể chuyện Jông, Jang con Briăng thấy bon Tiăng toàn người anh hùng định bắt ăn thịt; hai chị em xui các anh mình đi bắt người nhưng bị các anh từ chối; họ dùng bùa ngải xui khiến các anh đến đánh cướp bon Tiăng, dẫn đến kết cục thất bại và diệt vong của bon làng. Ở đây, rõ ràng, hai người phụ nữ này có tư tưởng lớn lao, muốn khẳng định sức mạnh và vị thế của bon làng mình, dám hành động vì mục đích đó. Nhưng dường như tư duy sử thi không chấp nhận điều đó, tác giả lý giải mọi hành động của các nhân vật do sự điều khiển của bùa ngải - yếu tố thần kỳ.
Sử thi miêu tả người phụ nữ là biểu trưng của cái đẹp, quyền lực, giàu có nhưng ở trong “trạng thái đã hoàn thành”. Hiện thân của những phụ nữ trong sử thi là những người già và những cô gái trẻ đẹp.
Những người già trong sử thi mang tính đại diện cho cộng đồng, là bà mẹ của cả cộng đồng. Nhưng người phụ nữ đó đã thuộc về quá khứ xa xôi, đã trở thành những ấn tượng cộng đồng chỉ còn lưu giữ trong ký ức của người già. Họ được tôn thờ nhưng theo kiểu những người đã khuất, đã không còn tham gia vào sự vận động của cộng đồng. Họ ngồi đó, làm gì đó chỉ mang tính chất biểu trưng danh dự cho cộng đồng, là đại diện cho quá khứ, tổ tiên và cho sự ổn định của cộng đồng...
Những cô gái trẻ đẹp được mô tả như những vẻ đẹp lý tưởng, hoàn mỹ. Và sử thi chỉ dừng lại ở việc miêu tả người con gái bằng những công thức như vậy. Ở các nhân vật này, không có quá trình phát triển về tính cách và hành động giống như các nhân vật anh hùng.
Vẻ đẹp của các cô gái trong sử thi được miêu tả bằng những hình thức tu từ hết sức tinh tế, có giá trị thẩm mỹ cao. Những nét vẽ của bút pháp thần thoại vẫn hiển hiện ở sự phô bày nét đẹp cơ thể, ở sức sống phập phồng mang đầy nét nữ tính. Nhưng dù người phụ nữ có đẹp đến đâu thì trong con mắt của người anh hùng, họ cũng không mang giá trị nhất thành bất biến. Đăm Di là một trường hợp tiêu biểu. Ban đầu chàng yêu Hơbia Êsun vì đó là “cô gái đẹp và dịu dàng hơn tất cả, không cô gái nào sánh được với nàng”. Nhưng sau khi lấy được Hơbia rồi, chàng lại yêu Hơring, nhưng cuối cùng lại mê đắm hơn cả Hơlung vì vẻ đẹp của Hơ lung.
Chàng Xinh Nhã cũng vậy. Chàng đồng ý lấy lấy Hơbia Blao thay vì Bra Tang vì Hơbia đã giúp chàng trả thù, đem lại chiến thắng cho cộng đồng. Có nghĩa là trong đối sánh với cộng đồng, người phụ nữ không còn là một số phận cụ thể có ý nghĩa. Sự tồn tại hay giá trị của người phụ nữ luôn bị đặt dưới danh dự, quyền lợi và số phận của cộng đồng. Về bản chất, trong những trường hợp người anh hùng chọn lựa cô gái này hay cô gái khác không phụ thuộc vào nhan sắc của họ mà vì những lợi ích mà cuộc hôn nhân (sự lựa chọn) đó đem lại. Đam chọn Hơlung, Xing Nhã chọn Hơbia Blao cũng vì những cô gái này là chủ nhân của vùng đất (bon) khác và khi kết hôn, người anh hùng sẽ mở mang buôn làng, thu nhận thêm tôi tớ và đất đai - những yếu tố tối quan trọng với sự phát triển của cộng đồng.
Chúng tôi lưu ý, những cô gái là chủ nhân của vùng đất là ý niệm sử thi kế thừa từ thần thoại. Nhưng điểm khác biệt, nếu ở thần thoại, chủ nhân vùng đất xuất hiện với tư cách người kiến tạo, đầy quyền uy và chủ động thì ở sử thi, chủ nhân của vùng đất chỉ như sự kế thừa từ luật tục, như tài sản hồi môn mà người phụ nữ mang theo về nhà chồng. Cho nên, họ trở thành đối tượng bị tranh đoạt, thụ động và nhỏ bé. Như vậy từ thần thoại đến sử thi, ý nghĩa biểu trưng của phụ nữ chỉ còn tồn tại trong hình thức, còn nội hàm của quan niệm đó đã hoàn toàn thay đổi.
Không thể trở thành những người hùng với chiến công hiển hách, thậm chí không được tự quyết định số phận của mình, những cô gái trẻ đẹp trở thành đối tượng của những cuộc tranh đoạt phụ nữ, là nguyên nhân của chiến tranh, mâu thuẫn, xung đột giữa các cộng đồng người. Do đó, đề tài phổ biến của sử thi là cuộc chiến tranh cướp người đẹp. Theo cách nghĩ thông thường, chúng ta cho rằng điều đó phản ánh địa vị tôn quý, cao cả của người phụ nữ vì họ trở thành trung tâm vấn đề của sử thi. Nhưng Đào Lập Phiên thì cho rằng “những miêu tả trong sử thi về những chiến trận nổ ra vì đàn bà đã thể hiện đầy đủ vận mệnh bi kịch của người phụ nữ”(4), bởi người phụ nữ không còn vai trò quyết định vận mệnh của cộng đồng nữa mà trái lại, số phận của họ trong tay những người đàn ông. Và dù cuộc chiến đấu thắng bại thuộc về phe nào thì người phụ nữ cũng được xem như một phần của thỏa hiệp sau chiến tranh.
Hơn nữa, việc chiến đấu của các anh hùng với các bộ lạc khác không phải để bảo vệ bản thân người phụ nữ mà điều cốt lõi là giữ gìn danh dự, uy thế của cộng đồng. Ẩn giấu đằng sau hành động quyết liệt đi đánh cướp (hoặc cướp lại) người phụ nữ là mong muốn phát huy vị thế, khẳng định sức mạnh, sự trưởng thành của cộng đồng mình trước những cộng đồng khác. Do đó dù là hình thức chiến tranh cướp người đẹp thì các yếu tố trong mối liên hệ chiến tranh - phụ nữ - đất đai cũng chỉ mang tính chất biểu trưng cho nội hàm lớn hơn. Và đề tài chiến tranh cũng như các đề tài khác chỉ là phương thức phản ánh đời sống cộng đồng để chuyển tải những vấn đề của thời đại.
2. Người phụ nữ trong quan hệ với gia đình và người đàn ông
Người phụ nữ với gia đình, gia tộc
Sự chuyển biến xã hội từ mẫu hệ chuyển sang phụ hệ gắn liền với những thiết chế hôn nhân, trong đó có việc xác định vai trò của các thành viên trong gia đình.
Xã hội mẫu hệ, thời đại của thần thoại, xác lập địa vị quan trọng của người phụ nữ, kéo theo hệ thống thiết chế, với nhiều ràng buộc về hôn nhân, vai trò của dòng họ mẹ và địa vị của người cậu trong gia đình. Trong sử thi, dấu ấn của người mẹ và chế độ mẫu hệ thể hiện ở cách thức đặt tên của tất cả các nhân vật: Tiăng con Rong, Lêng con Rong, Bing con Lông, Lêt con Jri, Mai con Jri… Nhưng đó chỉ là biểu hiện về hình thức, dấu ấn mờ nhạt của chế độ mẫu hệ, còn thực quyền không gắn với người phụ nữ nhiều nữa.
Vai trò của ông cậu theo dòng mẹ cũng được đề cập khá trân trọng, nhưng cũng chỉ giữ chức năng phụ nhất định trong các hành động của sử thi. Và sử thi đề cập đến sự xung đột giữa các cá nhân này để xác lập quyền tự chủ trong gia đình. Trong đó, các anh hùng để đạt được mục đích của mình càng ngày càng ít nhượng bộ với những mối quan hệ thị tộc...
Trong otndrong của người Mơ nông, ở tác phẩm Cướp Bung con Klêt, Lêng con Rung theo luật tục phải lấy Bing con Phuh và Bing con Jrai nhưng chàng chê các cô “sàng gạo còn để lộn hạt thóc, lặt rau còn bị dính con sâu”, Lêng quyết tâm đi tìm vợ. Lêng đi cướp Bing con KLêt và dẫn đến những cuộc chiến tranh xung đột. Rõ ràng trong xã hội Ê đê cuối kỳ chế độ công xã nguyên thủy và đứng trước “ngưỡng cửa văn minh” hay ở xã hội cổ sơ hơn của người Mơ nông thì việc người anh hùng từ chối những cuộc hôn nhân do thị tộc sắp xếp đã trở thành hệ thống.
Tư tưởng này đã hoàn toàn đoạn tuyệt với thần thoại. Chúng ta không còn thấy hình ảnh người phụ nữ là chủ của thế giới, mang trong mình quyền lực với hôn nhân và người đàn ông nữa. Hình tượng Bà Nữ Oa thi tài thắng Tứ Tượng, đạp đổ ngọn núi của ông, rồi trong lễ cưới với Tứ Tượng, Bà Nữ Oa thấy họ nhà trai rơi xuống sông, bà vớt họ lên cho vào lòng sưởi ấm, khiến ai cũng cảm thấy dễ chịu... đã lùi vào quá khứ, đã “hóa thạch” trong tư duy nghệ thuật của sử thi.
Không chỉ mất dần ảnh hưởng với cộng đồng, người phụ nữ cũng giữ vai trò khiêm tốn trong gia đình. Trong hệ thống otndrong, mọi việc quan trọng của đời sống gia đình: cưới hỏi, ma chay, ăn uống, tiếp khách… đều được định đoạt bởi người chủ gia đình - là người anh hùng trong sử thi.
Phụ nữ và người đàn ông trong sử thi
Sử thi quan niệm người phụ nữ là những người đẹp, phụ thuộc vào đàn ông. Đó là vẻ đẹp trong sự ràng buộc của bổn phận gia đình, là thứ trang sức cho chiến công của người anh hùng. Hệ thống tên, đề tài sử thi otndrong cũng đã cho thấy điều đó: Kră, Năng cướp Bing, Kông con Lông, Yang bán Bing con Lông, Cướp Bung con Klêt, Con hổ cắn mẹ Rông…
Người phụ nữ xuất hiện trong sử thi với tư cách là người đàn bà của gia đình, của công việc nội trợ, của những ý tứ và nền nếp. Đó là người phụ nữ của bếp lửa nhưng không phải với tư cách làm chủ như luật tục của xã hội mẫu hệ quy định mà là công việc bếp núc.
Một trong những nguyên tắc của việc xây dựng hình tượng trong sử thi là sự đánh giá của người khác luôn trùng khớp với sự tự đánh giá của chính các nhân vật. Người phụ nữ cũng vậy, họ thừa nhận thân phận đàn bà của mình, trước những người anh hùng, một cách đầy khiêm nhường. Chẳng những không còn giữ vai trò chủ động trong hôn nhân, người phụ nữ còn hết sức lệ thuộc vào người đàn ông. Họ không còn thử thách người anh hùng mà chỉ dám mơ tưởng, thậm chí lo lắng, thấp thỏm về cuộc hôn nhân của mình.
Tư tưởng về đổi ngôi giữa đàn ông và đàn bà không phải đến thời đại sử thi mới xuất hiện mà nó đã manh nha trong thần thoại cuối kỳ, đó là khi vai trò, sức mạnh của người đàn ông ngày càng được khẳng định...
Người phụ nữ trở nên thụ động trong hôn nhân, tình yêu và các hoạt động tính giao. Điều này là hệ quả tất yếu của vấn đề thứ nhất, khi có sự tăng cường thiết chế hôn nhân trong gia đình thì vấn đề bản năng của người phụ nữ bị đẩy xuống thứ yếu.Luật tục cho phép người phụ nữ đi hỏi chồng nhưng trong sử thikhông còn những hình tượng phụ nữ đầy quyền lực, chủ động trong hôn nhân nữa, đặc biệt, phụ nữ không còn tự tin và thoải mái với những hoạt động tính giao.
Trong otndrong Lêng nghịch đá thần của Yang, Lêng đến thăm các anh em họ là Ting con Jri và Mbong con Jri, thấy hai nàng Bing, Jông xinh đẹp, chàng ngỏ lời cầu hôn nhưng bị từ chối vì hai nàng đã có hôn ước với Ting con Lu. Nhưng ngay trong đêm đầu tiên ngủ lại Lêng đã dùng ngải thần đột nhập vào phòng của Bing, Jông và ngủ với hai nàng. Hành động này tất nhiên không được cộng đồng cho phép và sẽ dẫn đến chiến tranh để bảo vệ danh dự. Nhưng kết quả, những người anh hùng như Lêng, Tiăng luôn chiến thắng. Điều đó cho thấy, người đàn ông được bảo vệ không phải ở luật tục, hay trong truyền thống mà ở sức mạnh của chính anh ta. Cảnh này chúng ta còn bắt gặp hai lần nữa trong sử thi Tiăng cướp Djăn, Dje.
Điều rất lý thú là, đây là hai tác phẩm sử thi Mơ nông đầu tiên mà chúng tôi thấy cảnh làm tình được mô tả khá chi tiết, sinh động và thoải mái, thể hiện tư duy hết sức phóng khoáng, cởi mở của tác giả dân gian (khác hẳn với cách diễn tả trong văn học dân gian người Việt), và sử thi đúng là đã mô tả thời đại nguyên sơ “một đi không trở lại” của loài người.
Thực ra, đây là hành vi cưỡng bức đầy quyền lực của người đàn ông trong xã hội sơ khai. Khi lựa chọn người đàn ông là nhân vật trung tâm, sử thi đã xây dựng nhân vật anh hùng bằng phương pháp lý tưởng hóa, kỳ vĩ hóa, cho phép họ đứng trên “đỉnh” của mọi hành động, luôn làm theo ý của mình, vượt qua mọi khuôn phép và giới hạn. Chính vì thế, trong sự đối sánh với người đàn ông và với chính phụ nữ ở thời kỳ trước, người phụ nữ trong sử thi giữ địa vị hết sức khiêm tốn và mờ nhạt.
Khi đi vào tác phẩm sử thi, yếu tố thần linh mang tính kỳ ảo xuất hiện chính là lời bào chữa, bênh vực cho tội lỗi mà những người phụ nữ mắc phải - nói rằng họ bị bùa ngải làm mê hoặc. Đó là sự bênh vực người phụ nữ về phương diện đạo đức trước luật tục, đồng thời cũng là biểu hiện của sự mất dần địa vị làm chủ của người phụ nữ. Họ không còn là người duy nhất, chủ động trong đời sống tình dục, tình yêu nữa.
Sự thất thế của người phụ nữ là điều có thể đoán định và lý giải được trong sáng tác sử thi dân gian. Nếu như ở vào thời đại thần thoại, yếu tố quyết định vai trò của người phụ nữ là khả năng sinh sản, tạo ra loài người thì ở thời đại sau, vấn đề đó không còn quan trọng như trước. Người ta vẫn trân trọng chức năng sinh sản của người đàn bà, nhưng để tạo ra cộng đồng hùng mạnh, có sức cạnh tranh thì người đàn bà không thể sánh ngang với các đàn ông anh hùng. Chiến thắng một bộ lạc đối địch chẳng những đem lại của cải, đất đai mà còn thu nhận cả cộng đồng đó thành tôi tớ đi theo mình. Sự lớn mạnh một cách nhanh chóng, với những bước tiến thần kỳ như vậy mới là ước vọng lớn lao của tác giả sử thi. Đấy chính là hình ảnh Đam Săn chiến thắng các tù trưởng và các tôi tớ của họ đồng lòng đi theo chàng.
Như vậy, trong hành động, nhân vật anh hùng luôn vượt qua mọi ranh giới, giới hạn thể hiện vị trí “trên đỉnh” các hành động, trở thành phi thường mà những khuôn khổ, mực thước thông thường không đánh giá được. Nhưng trong những hành động ấy, người phụ nữ bị đẩy xuống hàng thứ yếu, trở thành những thân phận hết sức nhỏ bé trong tư thế đối sánh với người anh hùng.
Kết luận
Sự quan tâm của giới nghiên cứu và bản thân nghệ nhân - công chúng về hình tượng anh hùng là nhu cầu thẩm mỹ tất yếu khi đến với loại hình sử thi nhưng cái nhìn về người phụ nữ trong sử thi cho thấy nhiều vấn đề lý thú trong tư duy nghệ thuật của tộc người. Trong đó, số phận của người phụ nữ không chỉ là vấn đề của cá nhân, của giới mà còn là hình ảnh của cộng đồng, của tộc người đó trước ngưỡng cửa của thế giới văn minh.
Hình tượng phụ nữ trong sử thi là một vấn đề mang tính lịch sử, cho thấy sự phát triển trong tư duy nghệ thuật của con người từ thời đại thần thoại bước sang giai đoạn truyền thuyết, sử thi. Trong đó, tư duy nghệ thuật của con người sử thi có những bước không hoàn toàn trùng khớp với những điều kiện lịch sử văn hóa, tiền đề ra đời của thể loại. Người phụ nữ trong sử thi kế thừa ở thần thoại nét đẹp kỳ vĩ nhưng theo hướng dần dần hoàn thiện về đặc điểm diện mạo, thân phận và chức năng. Điều này cho thấy chức năng thể loại sử thi và sự biến đổi về tư tưởng nghệ thuật ở giai đoạn này.
Dù chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về hình tượng người phụ nữ trong tiến trình văn học dân gian. Hình tượng này khá phức tạp và phát triển theo những quy luật nhất định và qua đó biểu hiện ý thức sáng tạo rõ nét của tác giả dân gian. Hình tượng phụ nữ trong sử thi, truyền thuyết sẽ bước sang giai đoạn truyện cổ tích với tư cách các nạn nhân khốn khổ nhất, bị ràng buộc bởi đạo đức, gia đình (người đàn bà góa, người mồ côi, người phụ nữ câm, người đàn bà xấu xí, đàn bà vọng phu…); để rồi sự đè nén đó tạo nên sức phản kháng mạnh mẽ trong chèo cổ (nữ lệch: Thị Mầu, Xúy Vân, Thiệt Thê, Đào Huế…); giải phóng luật lệ và giới tính trong truyện cười và đỉnh cao là khát vọng giải phóng thân phận, tình yêu, hôn nhân, vô cùng mạnh mẽ trong ca dao và đặc biệt trong truyện thơ.
_______________
1. Nhiều tác giả, Truyện cổ Mơ nông, Nxb Văn nghệ, TP.HCM, 2006, tr.18
2. Viện sử học, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin, 2004, tr.212.
3. Đào Lập Phiên, Thơ tự sự anh hùng của dân tộc thiểu số Trung Quốc, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6-2008, tr.25.
4. Ngô Đức Thịnh, Văn hóa dân gian Ê đê, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1992, tr.31.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 309, tháng 3-2010