1. Mở đầu
Giải quyết các vấn đề về chữ viết của các tộc người thiểu số là công việc đã được tiến hành từ hàng trăm năm nay ở Việt Nam, khởi đầu từ bộ chữ Bahnar do các giáo sĩ Pháp xây dựng năm 1861 dựa theo mẫu tự La Tinh, tiếp đó là bộ chữ Jarai (1918), bộ chữ Êđê (1923), sử dụng những ký hiệu ghi âm giống như bộ chữ Bahnar [1]. Thời kỳ 1954-1975, ở miền Bắc, các bộ chữ Thái, chữ Tày-Nùng, chữ Mông đã được ban hành. Ở miền Nam, Viện Ngữ học Mùa hè (Summer Institute of Linguistics), một tổ chức tư nhân có tính chất quốc tế của Mỹ, đã xây dựng chữ viết dựa trên mẫu tự La Tinh cho 18 ngôn ngữ thiểu số và đã bước đầu triển khai phổ cập [2]. Từ sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, việc xây dựng, sửa đổi chữ viết cũng như việc triển khai giáo dục song ngữ trong một số tộc người thiểu số lại được tiếp tục và đã đạt được một số thành tựu [3]. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, những thành tựu đó vẫn chưa tương xứng so với thời gian và công sức của các nhà quản lý, nhà khoa học và nguyện vọng của các tộc người thiểu số liên quan.
Hiện nay, phần lớn các tộc người thiểu số ở vùng cao nước ta vẫn còn trong tình trạng mù chữ dân tộc, khiến cho việc bảo tồn, phát triển ngôn ngữ và văn hoá tộc người gặp rất nhiều khó khăn, và việc tuyên truyền, giáo dục của Đảng và Nhà nước đối với các tộc người thiểu số gặp nhiều trở ngại. Trong khi đó, nhiều ngôn ngữ đã có chữ viết rồi nhưng không sử dụng. Trong 53 tộc người thiểu số theo danh mục hiện hành, có đến 10 tộc người đã có chữ viết cổ truyền: Thái (chữ Thái), Lào (chữ Lào), Tày (chữ Nôm Tày), Nùng (chữ Nôm Nùng), Cao Lan (chữ Nôm Cao Lan), Mông (chữ Mông), Dao (chữ Nôm Dao), Chăm (chữ Akhar Thrah, chữ Chăm Melayu), Khmer (chữ Khmer), Hoa (chữ Hán); 25 tộc người có chữ viết La Tinh hoá: Bahnar, Jarai, Êđê, Thái, Tày-Nùng, Mông, Brũ, Pakóh, Katu, Sedang, Hrê, M'nông, K'ho, Stiêng, Raglai, Churu, Chrau... Các tộc người chưa có chữ viết phần lớn là các tộc người thuộc dòng ngôn ngữ Mon-Khmer và dòng ngôn ngữ Việt-Chứt cư trú ở Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ: Mường, Khmou, Ksing Mul, Kháng, Thổ, Chứt... Thế nhưng, nhìn lại thì chỉ mới có 5 bộ chữ cổ truyền hoặc chữ viết La Tinh hoá được giảng dạy đại trà cho học sinh bản ngữ: chữ Thái ở Tây Bắc, chữ Chăm ở Nam Trung Bộ, chữ Êđê ở Tây Nguyên, chữ Khmer và chữ Hoa ở Nam Bộ. Còn các bộ chữ khác thì chỉ mới được triển khai thử nghiệm (Jarai, Bahnar,...), triển khai dang dở (Brũ, Pakóh,...), thậm chí không được triển khai.
Sự trì trệ đó đã được nhiều nhà khoa học và nhà quản lý đề cập và phân tích nguyên nhân [4]. Có những nguyên nhân khách quan như tình trạng ngôn ngữ, chữ viết của các ngôn ngữ thiểu số vô cùng đa dạng và phức tạp: có ít phương ngữ, có nhiều phương ngữ, các phương ngữ ít khác nhau, các phương ngữ khác nhau nhiều, có một phương ngữ ưu thế, không có phương ngữ ưu thế, chưa có chữ viết, có chữ viết cổ truyền còn đang lưu dụng, có chữ viết cổ truyền nhưng không còn lưu dụng, có chữ viết La Tinh đã được triển khai phổ biến, có chữ viết La Tinh nhưng chưa được triển khai phổ biến, có một bộ chữ duy nhất, có nhiều bộ chữ khác nhau, v.v. Có những nguyên nhân chủ quan như việc lựa chọn mục tiêu, chuẩn bị tiền đề, xây dựng chương trình kế hoạch không phù hợp với tình trạng cụ thể của ngôn ngữ, chữ viết tộc người, "phát" rồi không "động", "đánh trống bỏ dùi", v.v. Tuy nhiên, theo ghi nhận của chúng tôi thì tình trạng trì trệ nêu trên còn có một nguyên nhân rất sâu xa: sự phiến diện trong những tri thức, những quan niệm cơ bản về công năng chữ viết. Những quan niệm phiến diện này chính là một trong những đầu mối dẫn đến cách xử lý sai lầm, lãng phí và những tác hại khác trong quá trình làm chữ, sửa chữ của các tộc người thiểu số.
2. Quan niệm "Chữ viết là công cụ cai trị, công cụ truyền giáo"
Trong lịch sử nước ta, quan niệm chữ viết là công cụ cai trị đã có từ rất xa xưa. Và từ quan niệm này, việc xây dựng, sửa đổi chữ viết cũng thường xuất phát từ động cơ chính trị. Dưới thời Bắc thuộc, chữ Hán đã được quân xâm lược dùng làm văn tự chính thức để cai trị và đồng hoá nhân dân Âu Lạc. Sang thời tự chủ, Hồ Quý Ly và vua Quang Trung chủ trương phát triển chữ Nôm thành văn tự dân tộc để thay thế vai trò chính thức của chữ Hán. Đến thời Pháp thuộc, thực dân Pháp lại chủ trương dùng tiếng Pháp và chữ Pháp làm ngôn ngữ, văn tự chính thức thay vì chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy chữ Quốc ngữ làm văn tự chính thức thay cho tiếng Pháp và chữ Pháp, v.v. Gắn bó mật thiết với quan niệm trên là quan niệm xem chữ viết là công cụ truyền giáo, và việc xây dựng, sửa đổi chữ viết xuất phát từ động cơ tôn giáo. Từ thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo của đạo Thiên Chúa đã tiến hành xây dựng chữ Quốc ngữ để cho tín đồ Việt Nam dễ hấp thu tôn giáo mới. Trong thập niên 1964-1974, các nhà ngôn ngữ học của Viện Ngữ học Mùa hè đã xây dựng các bộ chữ La Tinh cho các tộc người thiểu số phía Nam để tiện biên dịch Kinh Thánh, truyền đạo Tin Lành, v.v.
Như vậy, quan niệm "chữ viết là công cụ cai trị, công cụ truyền giáo" là một quan niệm có cơ sở trong lịch sử. Tuy nhiên, nếu chỉ đóng khung công năng của chữ trong khuôn khổ đó thì đó sẽ là một quan niệm phiến diện, hẹp hòi. Và nếu như quá lệ thuộc vào quan niệm đó đến mức vứt bỏ tất cả những sản phẩm chữ viết đã được sáng tạo, du nhập trong lịch sử văn hoá tộc người thì đó sẽ là một thái độ cực đoan, sai lầm. Ấy vậy mà điều đó đã xảy ra. Tiêu biểu là trường hợp các bộ chữ do Viện Ngữ học Mùa hè xây dựng cho các ngôn ngữ thiểu số đã bị bỏ rơi một cách lãng phí từ sau ngày giải phóng miền Nam, chỉ với lý do các bộ chữ đó được xây dựng nhằm mục tiêu truyền giáo.
Trong khi đó, như mọi người đều biết, chữ Quốc ngữ vốn cũng là một hệ thống văn tự lấy nguyên liệu từ chữ cái La Tinh, do các giáo sĩ nước ngoài và giáo dân người Việt sáng tạo để truyền giáo, và được thực dân Pháp sử dụng làm công cụ cai trị sau khi xâm lược nước ta. Thế nhưng các sĩ phu của phong trào Duy Tân - Đông Du đã không hề câu nệ vào điều đó mà vẫn đứng ra phát động cả một phong trào rộng lớn để biến nó thành một hệ thống văn tự của toàn dân kể từ đầu thế kỷ XX. Các chí sĩ ấy quả là có một tầm nhìn đáng để cho chúng ta nể phục. Tầm nhìn ấy đã vượt xa khỏi giới hạn của thế giới quan Nho giáo hẹp hòi để tiến tới xác lập chủ trương khai thác các sản phẩm văn hoá có nguồn gốc nước ngoài để làm lợi cho văn hoá nước nhà. Trong bài "Tình hình và chính sách xây dựng và phổ cập chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", GS.TS. Hoàng Thị Châu (2006) cho biết, một những kinh nghiệm có thể rút ra qua thực tế xây dựng và phổ cập chữ viết ở Việt Nam là: "Việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số phải nhằm mục đích nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc, chứ không phải là để đối phó với tình hình chính trị trong một thời điểm nào đó" [5]. Phải chăng lời khuyến nghị này muốn lưu ý chúng ta về vấn đề tầm nhìn trong việc ứng xử đối với di sản chữ viết của các tộc người thiểu số?
3. Quan niệm "Chữ viết là công cụ ghi tiếng nói"
Đây là một quan niệm rất phổ biến. Ngay trong Từ điển tiếng Việt (1998) của Viện Ngôn ngữ học người ta cũng thấy các khái niệm "chữ", "chữ viết", "văn tự" được định nghĩa là "Hệ thống kí hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói", v.v. [6] Chính vì quan niệm đơn giản như vậy nên, viện lý do những bộ chữ sẵn có không hợp lý, không bắt kịp những biến đổi ngôn ngữ hoặc không phản ánh được hết các phương ngữ, nhiều người sẵn sàng ra tay sửa đổi những bộ chữ mà cộng đồng đã quen dùng. Việc La Tinh hoá chữ Thái là một thí dụ. Năm 1981, phương án chữ Thái La Tinh đã được phê chuẩn ở tỉnh Lai Châu, được sử dụng để làm từ điển Thái - Việt, in các trang văn nghệ dân tộc trong các sách báo địa phương. Trong khi đó, từ thế kỷ thứ VI, người Thái đã có chữ viết cổ truyền, bao gồm 8 loại hình ký tự, bắt nguồn từ chữ Sanskrit (Ấn Độ) thông qua mẫu tự Khmer. Từ năm 2001, Chương trình Thái học Việt Nam do Cầm Trọng làm Chủ nhiệm đã tiến hành hoàn chỉnh bộ chữ Thái Việt Nam thống nhất, và triển khai xuống 7 tỉnh có người Thái cư trú. Tương tự là việc sửa đổi chữ Chăm. Chữ Chăm ra đời không muộn hơn thế kỷ thứ IV, sớm nhất Đông Nam Á, bắt nguồn từ chữ Brahmi ở Nam Ấn Độ. Từ năm 1978, Ban Biên soạn sách chữ Chăm Ninh Thuận đã xúc tiến xây dựng chữ Akhar Thrah cải tiến, biên soạn sách giáo khoa và triển khai giảng dạy cho học sinh người Chăm. Trường hợp các bộ chữ cải tiến được xây dựng sau năm 1975 cho các ngôn ngữ thiểu số ở Trường Sơn - Tây Nguyên cũng vậy: thay vì tận dụng các bộ chữ đã có, người ta sửa đổi chúng để làm ra chữ mới.
Tác hại của quan niệm và cách làm nêu trên không có gì phải nghi ngờ. Những người học chữ Thái La Tinh hoá không thể tiếp cận được di sản văn hoá Thái được ghi bằng chữ Thái cổ truyền. Những người học chữ Akhar Thrah cải tiến không thể đọc được chữ Akhar Thrah trên các văn bản, văn bia, gây ra sự đứt đoạn giữa các thế hệ được học bộ chữ cải tiến với di sản văn hoá Chăm vĩ đại mà tất cả người Chăm đều rất tự hào [7]. Đối với các trường hợp sửa đổi các bộ chữ La Tinh hoá của các tộc người Trường Sơn - Tây Nguyên thì mặc dù việc đó không gây ra sự đứt đoạn đối với quá khứ vì các di sản văn hoá được ghi lại bằng các bộ chữ La Tinh hoá chưa nhiều, nhưng nó vẫn gây ra sự lãng phí và sự bất đồng: bất đồng văn tự, bất đồng ý kiến trong chính các tộc người là đối tượng thụ hưởng.
Thật ra, chữ viết không đơn thuần là công cụ ghi tiếng nói. Đây là một quan niệm phiến diện có thể thúc đẩy người ta tiến hành những sửa đổi không ngừng để buộc chữ viết phải phản ánh một cách tuyệt đối chính xác tiếng nói của con người. Dĩ nhiên, đó là một động cơ hết sức sai lầm vì thực tế không bao giờ có những bộ chữ phản ánh tuyệt đối chính xác các trạng thái ngôn ngữ và phương ngữ. Đó là chưa kể, trong nhiều trường hợp, lý do sửa chữ cho giống tiếng chỉ là cái cớ giúp người ta đạt được những mục tiêu vụ lợi. Trước đây đã từng có sự kiện một chủ nhà in, sau khi lỡ nhập các thiết bị in không có dấu của châu Âu, đã viết báo vận động cải tiến chữ Quốc ngữ theo hướng thay các dấu thanh bằng chữ cái. Gần đây hơn là trường hợp một số trí thức, sinh viên thỉnh thoảng lại lấy việc cải tiến chữ Quốc ngữ làm đề tài nghiên cứu, kêu gọi Nhà nước phải cải tiến cho triệt để. Hoặc trường hợp một số người đứng ra làm đề án cải tiến hệ thống chữ viết sẵn có của một số tộc người, nhưng thực chất chỉ để nhận kinh phí bạc tỷ, còn đề án có ích lợi gì cho ngôn ngữ, văn hoá các tộc người hay không thì không cần biết.
Chữ viết là công cụ ghi tiếng nói, nhưng bên cạnh công năng đó, nó còn là một trong những phương tiện giao tiếp chủ yếu, kết nối những con người còn sống của một cộng đồng, kết nối các cộng đồng địa phương của một tộc người, kết nối những người đang sống của tộc người đó với tổ tiên đời trước và với con cháu đời sau. Tiếng nói luôn biến đổi, các ngôn ngữ cũng thường có nhiều phương ngữ và thổ ngữ. Nhưng chữ viết thì có tính ổn định và tính thống nhất cao hơn, có thể giúp người ta vượt qua sự khác biệt về mặt ngữ âm giữa các phương ngữ và thổ ngữ. Chính nhờ vậy, chữ viết mới có thể giúp cho di sản văn hoá của đời trước có thể hiểu được đối với đời sau, bản sắc văn hoá của địa phương này có thể hiểu được đối với địa phương kia. Nó làm cho các thế hệ trước và sau, các cộng đồng cư dân ở các vùng miền, dù cách xa nhau hàng trăm năm thời gian, hàng ngàn dặm không gian, vẫn có thể hiểu được nhau, giao tiếp với nhau, để nhận ra nhau là mình cùng thuộc về một tộc người thống nhất. Vì vậy, việc sửa đổi các bộ chữ hiện có của các tộc người là một việc vạn bất đắc dĩ, nếu không phải là tối cần thiết thì cứ thế mà dùng để tránh gây ra xáo trộn, bất đồng, đứt đoạn. Trường hợp chữ Hán của người Hoa là một thí dụ tốt cho điều vừa nói. Ra đời muộn nhất là vào thời nhà Thương (1776-1122 trước Công nguyên), chữ Hán là một thành tựu văn hoá vĩ đại của văn hoá Trung Hoa, là phương tiện truyền lưu văn hoá và nối kết các cộng đồng người Hoa mà phương ngữ cách xa nhau. Cho nên, mặc dù việc truyền thụ loại chữ ghi ý này đòi hỏi rất nhiều công sức thời gian, người Hoa vẫn duy trì việc giảng dạy nó ở các trường lớp, chứ không chuyển sang dùng Giản thể tự là một hình thức làm đơn giản hoá đường nét của chữ Hán nhưng lại khiến cho người học không thể đọc được văn bản của tiền nhân.
4. Quan niệm "Chữ viết của các ngôn ngữ thiểu số là công cụ bắc cầu sang ngôn ngữ phổ thông"
Trong lịch sử nước ta, quan niệm chữ viết của các ngôn ngữ thiểu số là công cụ bắc cầu sang ngôn ngữ phổ thông đã có từ thập niên 1960. Năm 1961, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành cùng một lúc ba phương án chữ viết: chữ Tày-Nùng, chữ Mông theo tự dạng La Tinh, chữ Thái cải tiến, và đưa vào dạy trong các trường tiểu học bắt đầu từ năm học 1962-1963. Ở vùng Tây Bắc, hai năm đầu người Thái hăm hở cho con em đi học. Nhưng về sau, người ta thấy việc học chữ Thái không đem lại lợi ích gì, mà lại làm chậm trễ việc học tiếng và chữ Việt trong chương trình phổ thông. Đến năm 1968, chữ Thái cải tiến không còn được dạy ở trường phổ thông trong các vùng người Thái cư trú nữa. Ở vùng Đông Bắc, đến năm 1978 việc dạy chữ và tiếng Tày-Nùng trong trường phổ thông chấm dứt. Việc dạy tiếng và chữ Mông cũng có tình trạng tương tự. Sau khi xoá nạn mù chữ một thời gian, dân mù chữ trở lại. Từ 1990 đến nay việc dạy và học tiếng Mông lại được Bộ Giáo dục quan tâm trở lại, cải tiến chương trình song ngữ, biên soạn lại sách giáo khoa và tổ chức dạy thí điểm ở Thanh Hoá, Lào Cai, nhưng tình hình vẫn không khả quan hơn. Ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, việc triển khai các bộ chữ cũng cực kỳ chậm chạp, mà một trong những nguyên nhân là người ta cảm thấy việc truyền thụ ngôn ngữ, chữ viết của các tộc người thiểu số không đem lại lợi ích mà còn làm chậm trễ việc học tiếng và chữ Việt [8].
Như vậy, quan niệm "chữ viết của các ngôn ngữ thiểu số là công cụ bắc cầu sang ngôn ngữ phổ thông" cũng là một quan niệm có cơ sở trong lịch sử. Và do vận dụng một quan niệm phiến diện như vậy nên kết quả chung của việc truyền thụ ngôn ngữ, chữ viết của các tộc người thiểu số cũng vô cùng phiến diện. Như một nhận định của GS.TS. Hoàng Thị Châu (2006): "Trong lĩnh vực giáo dục, do quan niệm thiển cận về mục đích dạy chữ và tiếng dân tộc thiểu số là "bắc cầu" để học chữ Việt và tiếng Việt, cho nên như chúng ta đã thấy những phong trào dạy và học chữ Thái, Hmông, Tày Nùng ở miền núi phía Bắc, đợt thử nghiệm đưa tiếng và chữ Bahnar, Êđê, Jarai, Sêđăng dạy ở các trường tiểu học Tây Nguyên đều có kết thúc đáng buồn" [9].
Thật ra, chữ viết của các ngôn ngữ thiểu số không phải là công cụ bắc cầu sang ngôn ngữ phổ thông. Trước hết, chữ viết ấy là phương tiện giao tiếp, phương tiện lưu trữ và lưu truyền văn hoá tộc người, là một trong những phương tiện chủ yếu để diễn giải và chuyển tải văn hoá tộc người một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi người. Người ta vẫn nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu, phương tiện lưu trữ và chuyển tải văn hoá chủ yếu của các cộng đồng. Nhưng thật ra, ngôn ngữ chỉ là một khái niệm trừu tượng. Bản thân nó không thể đóng được vai trò nào cả nếu không thông qua những biểu hiện vật chất là tiếng nói và chữ viết. Là phương tiện biểu hiện của ngôn ngữ, có chức năng phản ánh và chức năng lưu trữ, chữ viết của một cộng đồng có quan hệ mật thiết với lịch sử, tín ngưỡng, phong tục, giá trị văn hoá của cộng đồng. Và một khi đã gắn bó đủ lâu với cộng đồng thì chữ viết, cho dù có nguồn gốc nội sinh hay ngoại sinh, cũng sẽ trở thành một yếu tố hữu cơ cấu thành văn hoá tộc người, là phương tiện bảo tồn, thực hành, phát huy tín ngưỡng, phong tục, giá trị văn hoá, gắn liền với tín ngưỡng, phong tục, giá trị văn hoá của tộc người. Nếu đánh mất nó, tộc người sẽ cảm thấy như đã đánh mất một phần quan trọng của văn hoá tộc người, lịch sử tộc người. Tức là, chữ viết ấy đã sức sống riêng, độc lập đối với ý chí của cá nhân, cho dù đó là nhà cầm quyền hay nhà khoa học. Đó là lý do vì sao, mặc dù các bộ chữ cổ truyền thường không theo kịp sự phát triển, biến đổi của các phương ngữ và ngôn ngữ tộc người, nhưng nhiều tộc người từ Đông sang Tây vẫn duy trì các bộ chữ mà họ và ông cha họ đã quen dùng chứ không đổi mới hay thay thế nó.
Ở Việt Nam, đó là trường hợp của các bộ chữ cổ truyền như chữ Thái, chữ Lào, chữ Chăm, chữ Khmer, chữ Hán... Người Thái có chữ viết cổ truyền hình thành từ thế kỷ thứ VI, bao gồm 8 loại hình ký tự, bắt nguồn từ chữ Sanskrit (Ấn Độ) thông qua mẫu tự Khmer. Trong kho tàng văn hoá của tộc người Thái, chữ Thái cổ được coi là di sản tinh thần, kết tinh trí tuệ của tổ tiên để lại, được lưu giữ trong các sách cổ ghi chép về văn học, phong tục, luật tục, lịch sử hoặc trong các gia phả tộc phả, có giá trị nghiên cứu về văn học, địa phương học, dân tộc học và lịch sử phát triển xã hội từ xưa của cộng đồng dân cư Thái. Chữ Chăm thì có niên đại ra đời không muộn hơn thế kỷ thứ IV, sớm nhất Đông Nam Á. Từ các loại hình chữ Chăm cổ có nguồn gốc từ chữ Brahmi ở Nam Ấn Độ, trải qua nhiều lần biến đổi trong lịch sử, mới hình thành bộ chữ Akhar Thrah ngày nay [10]. Chữ Khmer cổ truyền của người Khmer Nam Bộ thì ra đời vào thế kỷ thứ VII, cũng bắt nguồn từ chữ Sanskrit [11]. Còn chữ Hán thì ra đời muộn nhất là vào thời nhà Thương (1776-1122 trước Công nguyên), được xem là một thành tựu văn hoá vĩ đại của văn hoá Trung Hoa, là phương tiện truyền lưu văn hoá và nối kết các cộng đồng người Hoa [12]. Từ lâu, các bộ chữ cổ truyền đó đã trở thành một yếu tố hữu cơ của văn hoá tộc người, là phương tiện bảo tồn, thực hành, phát huy tín ngưỡng, phong tục, giá trị văn hoá, gắn liền với tín ngưỡng, phong tục, giá trị văn hoá của các tộc người chủ thể. Do đó, nếu như tiếp tục truyền thụ các bộ chữ này thì mục tiêu cần hướng tới phải là nhằm kết nối các thế hệ hôm nay với di sản văn hoá mà họ thừa hưởng của cha ông, chứ không phải là để bắc cầu sang ngôn ngữ khác.
Cũng trong bài báo nêu trên, sau khi nêu tác hại của quan niệm thiển cận về mục đích dạy chữ và tiếng dân tộc thiểu số "bắc cầu" để học chữ Việt và tiếng Việt, GS.TS. Hoàng Thị Châu (2006) đã đưa ra khuyến nghị: "Thật ra, việc học chữ và tiếng dân tộc thiểu số có mục đích sâu xa hơn để hiểu biết bản sắc riêng của nền văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc đó và để tham gia vào việc bảo tồn và phát triển nền văn hoá đó. Nếu không được sự hỗ trợ của ngành văn hoá, thì ngành giáo dục chỉ làm được công việc xoá mù chữ và vỡ lòng rồi dừng lại ở đây là một việc làm vô nghĩa. Chương trình song ngữ ở một số trường tiểu học miền núi trước đây được cấu tạo để dạy xen kẽ 2 ngôn ngữ: Lớp 1 dạy chữ và tiếng dân tộc thiểu số, lớp 2 thêm môn tiếng Việt, lớp 3, lớp 4 tăng dần các môn khác bằng tiếng Việt. Chương trình song ngữ như vậy cũng thể hiện rõ quan điểm "bắc cầu" học tiếng dân tộc thiểu số là bắc cầu để học tiếng Việt. Qua cầu xong thì bỏ cầu là một cách làm không đúng. Thực ra, phải quan niệm việc học tiếng dân tộc thiểu số là nhằm vào việc sử dụng và phát triển truyền thống văn hoá của dân tộc, phát triển xã hội" [13].
4. Kết luận
Việc xây dựng, sửa đổi, triển khai chữ viết của các tộc người thiểu số ở Việt Nam trong những thập niên gần đây chỉ thu được những kết quả không mấy khả quan. Một nguyên nhân sâu xa của tình trạng đó là sự phiến diện trong những tri thức, những quan niệm cơ bản về công năng chữ viết. Những quan niệm phiến diện này chính là một trong những đầu mối dẫn đến cách xử lý sai lầm, lãng phí và những tác hại khác, khi người ta tiến hành làm chữ, sửa chữ của các tộc người thiểu số xuất phát từ những động cơ không nhằm phục vụ việc bảo tồn, phát huy văn hoá tộc người. Cho nên, để có thể nhìn nhận đúng thực trạng và chọn lựa đúng giải pháp cho các vấn đề chữ viết của một tộc người thiểu số, trước hết cần phải truy tìm đúng căn nguyên của vấn đề, không chỉ trong lịch sử hình thành phát triển của bản thân chữ viết đó mà cả trong lịch sử giải quyết các vấn đề chữ viết của các tộc người thiểu số trên toàn quốc nói chung. Trong trường hợp việc xây dựng, sửa đổi chữ viết đã được triển khai, cần phải nghiêm túc xem xét tác dụng thực tế trên các phương diện khoa học, văn hoá, nhân tâm của các giải pháp đã chọn. Tác dụng thực tế này sẽ là thước đo khách quan nhất, quan trọng nhất để đánh giá các giải pháp ấy, bất luận chúng xuất phát từ động cơ nào và được trang bị bởi thứ lý thuyết nào.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 13/6/2009.
Nguồn: Tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá 8 (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) "Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), "Sẽ có Nghị định về dạy và học tiếng Việt, tiếng dân tộc đối với học sinh người dân tộc thiểu số", báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 20/1/2006. http://vietnamgateway.org/education/vn_index.php?id= 03038id=060120133504.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1997), Thông tư số 01/GD-ĐT ngày 3/2/1997 hướng dẫn việc dạy học tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2007), Dự án hoàn thiện và hiện đại hoá hệ thống quản lý đất đai Việt Nam (VLAP) sử dụng nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới. Khung kế hoạch dân tộc thiểu số.
5. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Quyết định số 3/2006/QĐ-BGD&ĐT ngày 24/1/2006 ban hành "Chương trình khung dạy tiếng dân tộc thiểu số (có chữ viết) cho cán bộ, công chức, công tác ở vùng dân tộc thiểu số".
6. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Quyết định số 30/2006/QĐ-BGDĐT ngày 4/7/2006 ban hành "Chương trình dạy tiếng Chăm cho cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi".
7. Cư Hoà Vần (2000), "Tiếng dân tộc thiểu số với tiếng Việt", Chuẩn hoá và phong cách ngôn ngữ, Viện Thông tin Khoa học Xã hội. Hà Nội: Viện Thông tin Khoa học Xã hội. Tr. 123-128.
8. Đài Tiếng nói Việt Nam (2005), "Dạy và học ngôn ngữ dân tộc thiểu số: Cần có một chiến lược". Đài Tiếng nói Việt Nam, 11/1/2005. http://vietnamgateway.org.vn/education/vn_index. php?id=03018cid=050111144353.
9. Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
10. Đinh Lê Thư chủ biên (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
11. Grimes, Barbara F., editor (1988), Ethnologue: Languages of the world, 11th edition, Summer Institute of Linguistics, Inc., Dallas, Texas, 748 pp.
12. Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ sáu, Hà Nội - Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học.
13. Hoàng Tuệ (1992), "Về vấn đề song ngữ", tạp chí Ngôn ngữ, số 3/1992.
14. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội - văn hoá. NXB Giáo dục.
15. Hoàng Thị Châu (2006), "Tình hình và chính sách xây dựng và phổ cập chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", http://ngonngu.net/index.php?p=173, 10/12/2006.
16. Hoàng Văn Hành (2000), "Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam", Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á (Pan-Asiatic linguistics. The 5th international symposium on languages and linguistics), TP. Hồ Chí Minh, 16-17/11/2000.
17. Hội đồng Chính phủ (1969), Quyết định số 153-CP ngày 20/8/1969 "Về việc xây dựng, cải tiến và sử dụng chữ viết của các dân tộc thiểu số".
18. Hội đồng Chính phủ (1980), Quyết định số 53-CP ngày 22/2/1980 "Về chủ trương đối với chữ viết của các dân tộc thiểu số".
19. Lương Bèn (1981), "Dạy chính tả chữ Việt cho học sinh song ngữ", Một số vấn đề ngôn ngữ học Việt Nam, Nguyễn Tài Cẩn chủ biên. Hà Nội: NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp. Tr. 60-62.
20. Lý Tùng Hiếu (2005), Lương Văn Can và phong trào Duy Tân - Đông Du, TP. Hồ Chí Minh: NXB Văn hoá Sài Gòn.
21. Lý Tùng Hiếu chủ nhiệm (2008), Những vấn đề ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số Việt Nam: Lý luận và chính sách, Đề tài nghiên cứu cấp Viện năm 2008, Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ, nghiệm thu tháng 12/2008.
22. Mạc Đường (1997), Dân tộc học và vấn đề xác định thành phần dân tộc. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
23. Mai Khắc Ứng (1980), "Góp thêm vài tài liệu về âm mưu của chủ nghĩa thực dân mới trong vấn đề dân tộc ít người ở miền Nam nước ta", Góp phần nghiên cứu bản lĩnh, bản sắc các dân tộc ở Việt Nam, Viện Dân tộc học. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Tr. 135-151.
24. Mai Văn Mô (2003), "Một vài nhận xét về năng lực sử dụng tiếng Việt của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và những ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển", tạp chí Ngôn ngữ, số 12-2003.
25. Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến năm 1945), Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
26. Nguyễn Tấn Đắc (1999), "Từ nhu cầu văn hoá đến quyền văn hoá của các dân tộc", Những vấn đề văn hoá, văn học & ngôn ngữ học, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh. NXB Khoa học Xã hội. Tr. 20-37.
27. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hoá, xã hội và con người Tây Nguyên. NXB Khoa học Xã hội.
28. Nguyễn Tuấn Triết (2000), "Xã hội các tộc người Mã Lai - Đa Đảo ở Việt Nam trên đường phát triển", Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Tr. 652-657.
29. Nguyễn Tuấn Triết (2003), Tây Nguyên cuối thế kỷ XX. Vấn đề dân cư và nguồn nhân lực. NXB Khoa học Xã hội.
30. Nguyễn Thiện Giáp (2006), "Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử", http://ngonngu.net?p=172, 9/12/2006.
31. Nguyễn Văn Diệu (1999), "Bảo tồn văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số", tạp chí Khoa học Xã hội, số 40 - II/1999.
32. Nguyễn Văn Diệu (2000), "Mấy suy nghĩ về bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Tr. 125-131.
33. Nhiều tác giả (2003), Tây Nguyên ngày nay. NXB Văn hóa Dân tộc.
34. Nhiều tác giả (2005), Tây Nguyên ngày nay, tập 2. NXB Văn hóa Dân tộc.
35. Nhiều tác giả (2008), Kỷ yếu Toạ đàm khoa học "Vấn đề ngôn ngữ ở các vùng dân tộc thiểu số: Trường hợp Nam Bộ - lý luận, hiện thực, chính sách", Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ, 25/11/2008.
36. Như Ý (1986), "Vấn đề ngôn ngữ giáo dục trong các nước mới giành độc lập - Kinh nghiệm Việt Nam", Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông. Hà Nội: Viện Ngôn ngữ học. Tr. 439-447.
37. Phạm Đức Dương (2000), "Giải quyết mối quan hệ giữa ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ các dân tộc ít người ở Việt Nam - vấn đề và giải pháp", tạp chí Ngôn ngữ, số 10-2000.
38. Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ - văn hoá tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Phú Văn Hẳn chủ nhiệm (2007), Bao gồm xã hội các dân tộc thiểu số vào khuôn khổ và tiến trình phát triển quốc gia chung - Trường hợp người Chăm, Đề tài nghiên cứu cấp viện năm 2007, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, nghiệm thu tháng 12/2007.
40. Phú Văn Hẳn (1991), "Chữ viết của người Chăm ở Việt Nam", tạp chí Khoa học Xã hội, số 10, 1991.
41. Phú Văn Hẳn (1999), "Ngôn ngữ Chăm với việc bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc", Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc - vai trò của nghiên cứu và giáo dục, TP. Hồ Chí Minh: NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Phú Văn Hẳn (2000), "Người Chăm và sự hoà nhập văn hoá", Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Tr. 632-639.
43. Quốc hội (1998), Luật Giáo dục.
44. Quốc hội (2005), Luật Giáo dục.
45. Summer Institute of Linguistics (2008), www.Ethnologue.com, website.
46. Tạ Văn Thông (2005), "Ngôn ngữ trong giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam", tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (117) - 2005, tr. 38-42.
47. Tạp chí Xưa & Nay (2000, 2007), "Chính sách của Pháp tại Cao Nguyên miền Nam", tạp chí Xưa & Nay, chuyên đề Buôn Ma Thuột, 2000; Đất và người Tây Nguyên, nhiều tác giả, tạp chí Xưa & Nay & NXB Văn hoá Sài Gòn, 2007, tr. 33-36.
48. Tô Đình Nghĩa (2005), "Một khía cạnh của tiếp xúc ngôn ngữ: song ngữ và giáo dục song ngữ", Tiếp xúc ngôn ngữ ở Việt Nam. NXB Khoa học Xã hội.
49. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chỉ thị số 38/2004/CT-TTg ngày 9/11/2004 về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức ở các vùng dân tộc, miền núi.
50. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 219/2005/QĐ-TTg ngày 9/9/2005 về phê duyệt Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010.
51. Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam. Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
52. Trần Trí Dõi (2001), Ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá xã hội, NXB Văn hoá Thông tin.
53. Trung tâm Nghiên cứu Tây Nguyên (2004), Đặc điểm hoạt động truyền đạo tại các thành phố ở Tây Nguyên (1986-2003), Đề tài nghiên cứu cấp Viện năm 2003, Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh chủ trì, nghiệm thu 1/2004.
54. Uỷ ban Dân tộc (2007), "Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số", Báo cáo của Uỷ ban Dân tộc tại Hội nghị tổng kết công tác bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số, http://www.cema.gov.vn/index.php.
55. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
56. Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
57. Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh (1993), Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số phía Nam. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
58. Viện Ngôn ngữ học (1984), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam và chính sách ngôn ngữ. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
59. Viện Ngôn ngữ học (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
60. Võ Xuân Trang (2000), "Dạy tiếng Việt cho học sinh các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. Tr. 916-930.
CHÚ THÍCH
[1] Hoàng Thị Châu (2006), "Tình hình và chính sách xây dựng và phổ cập chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", http://ngonngu.net/index.php?p=173, 10/12/2006.
[2] Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh (1993), Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số phía Nam, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
[3] Uỷ ban Dân tộc (2007), "Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số", Báo cáo của Uỷ ban Dân tộc tại Hội nghị tổng kết công tác bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số, http://www.cema.gov.vn/index.php.
[4] Viện Ngôn ngữ học (1993), Những vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội; Viện Khoa học Xã hội tại TP. Hồ Chí Minh (1993), Giáo dục ngôn ngữ và sự phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số phía Nam, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội; Trần Trí Dõi (1999), Nghiên cứu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Hà Nội: NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Hoàng Văn Hành (2000), "Cảnh huống và chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam", Hội nghị quốc tế lần thứ năm về ngôn ngữ học và ngôn ngữ học liên Á (Pan-Asiatic linguistics. The 5th international symposium on languages and linguistics), TP. Hồ Chí Minh, 16-17/11/2000; Tạ Văn Thông (2005), "Ngôn ngữ trong giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam", tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 7 (117) - 2005, tr. 38-42; Nguyễn Thiện Giáp (2006), "Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử", http://ngonngu.net?p=172, 9/12/2006; Hoàng Thị Châu (2006), "Tình hình và chính sách xây dựng và phổ cập chữ viết các dân tộc thiểu số ở Việt Nam", http://ngonngu.net/index.php?p=173, 10/12/2006; Uỷ ban Dân tộc (2007), "Bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số", Báo cáo của Uỷ ban Dân tộc tại Hội nghị tổng kết công tác bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số, http://www.cema.gov.vn/index.php; Lý Tùng Hiếu chủ nhiệm (2008), Những vấn đề ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số Việt Nam: Lý luận và chính sách, Đề tài nghiên cứu cấp Viện năm 2008, Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ, nghiệm thu tháng 12/2008; v.v.
[5] Hoàng Thị Châu (2006), tlđd.
[6] Hoàng Phê chủ biên (1998), Từ điển tiếng Việt, in lần thứ sáu, Hà Nội - Đà Nẵng: NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học.
[7] Sakaya (2008), "Tiếng nói và chữ viết của người Chăm hiện nay: Thực trạng và giải pháp", Kỷ yếu Toạ đàm khoa học "Vấn đề ngôn ngữ ở các vùng dân tộc thiểu số: Trường hợp Nam Bộ - lý luận, hiện thực, chính sách", Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ, 25/11/2008.
[8] Hoàng Thị Châu (2006), tlđd.
[9] Hoàng Thị Châu (2006), tlđd.
[10] Phú Văn Hẳn (1991), "Chữ viết của người Chăm ở Việt Nam", tạp chí Khoa học Xã hội, số 10, 1991.
[11] Đinh Lê Thư chủ biên (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[12] Nguyễn Cẩm Thuý chủ biên (2000), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến năm 1945), Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.