Ông cho biết: "Đọc tác phẩm này là một cơ may cho độc giả Việt Nam. Bởi các nhà văn sẽ tìm thấy trong đó những bài học về sáng tác, cách khai thác đề tài cũng như loại hình tác phẩm, các nhà khoa học, đặc biệt các nhà sử học sẽ coi cuốn sách như một giả thuyết về lịch sử trong đó đặt ra và giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người, về văn hóa, xã hội của Trung Quốc. Còn đối với bạn đọc trẻ, những người ham hiểu biết, đây sẽ là một cơ hội khám phá tuyệt vời về thế giới tự nhiên, về cuộc sống nơi thảo nguyên mênh mông. Tôtem sói là một kho tàng kiến thức kỳ diệu, thú vị về một nền văn hóa chưa được biết tới, chưa được đánh giá đúng".
Chị Việt Hà, biên tập viên NXB Công an nhân dân cho biết, Tô tem sói đã đạt kỷ lục về xuất bản tại Trung Quốc năm 2005 với 6 triệu bản và liên tiếp đứng đầu danh sách bán chạy nhất tại Trung Quốc trong nhiều tháng liền. NXB Công an nhân dân đã mua bản quyền cuốn sách với giá 1000 USD, rất cao tại Việt Nam. Nhưng "chưa là gì" với việc Tập đoàn Penguin (Mỹ) đã bỏ ra 100.000 USD - giá bản quyền cao nhất đối với một tác phẩm văn học Trung Quốc từ trước đến nay - để mua bản quyền phát hành Tô tem sói bản tiếng Anh. Và tác phẩm cũng đã được đạo diễn Peter Jackson - đạo diễn phim Chúa tể những chiếc nhẫn - chuẩn bị đưa lên màn ảnh.
- Thưa ông, vậy "cơ may" nào đã khiến ông tiếp xúc với tác phẩm này?
- Thực ra nhà văn Khương Nhung không phải là một cái tên được biết đến nhiều ở Trung Quốc. Tất cả những gì tôi được biết về ông là: năm nay ông 60 tuổi, thời kỳ cách mạng văn hóa ông xung phong đi lao động tại vùng thảo nguyên Nội Mông và là người rất thông thạo vùng đất phía bắc Trung Quốc này. Ông đã "thai nghén" cuốn tiểu thuyết trong 20 năm, khi hãy còn là một thanh niên, và tập trung viết trong sáu năm. Có thể nói, Tôtem sói là cuốn sách của đời ông. Xuất bản ở Trung Quốc vào năm 2005, Tôtem sói lập tức được dư luận chú ý và trở thành cuốn sách bán chạy nhất Trung Quốc trong những năm gần đây.
NXB Công an nhân dân đã mua bản quyền Tôtem sói và đề nghị tôi dịch sang tiếng Việt, sau khi đọc qua tác phẩm, tôi nhận lời ngay. Dịch tác phẩm này cũng như khám phá một kho tàng kiến thức vô cùng kỳ thú. Khương Nhung viết rất giản dị, không hề có chủ ý "làm văn". Sức hấp dẫn của câu chuyện nằm ở những sự kiện, chi tiết, tình huống, nhân vật. Từ những cá thể đơn độc đến những "tập đoàn" sói có tổ chức rất cao trong "xã hội" thảo nguyên... cuối cùng là đặt ra và giải quyết thấu đáo, hết sức khoa học những vấn đề về lịch sử loài người, về xã hội, văn hóa...
Theo dịch giả Trần Đình Hiến, tôtem là linh vật, mang ý nghĩa biểu tượng về sức mạnh tinh thần của con người. Ở Trung Quốc, tôtem ban đầu thường là những biểu hiện về người phụ nữ, như mặt trăng, cá... và đặc biệt được biết đến sau này là rồng. Đối với văn hóa phương tây, tôtem là hình ảnh con ngựa bay có cánh... Nhiều nước, nhiều nền văn hóa có nhiều tôtem khác nhau.
- Tính biểu tượng văn hóa trong "Tôtem sói" có vẻ như chưa hề được biết đến trong lịch sử? Tác giả đã "giải quyết" vấn đề này như thế nào và có phải chính đó là sự thành công của Khương Nhung?
- Theo Khương Nhung, nền văn hóa Trung Quốc có sự hội tụ của văn hóa du mục và văn hóa canh nông, mà mỗi bộ phận văn hóa này đều có những biểu tượng riêng của mình. Trong nền văn hóa du mục, sói là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần của người Mông Cổ. Biểu tượng này tương ứng với hình ảnh con rồng trong văn hóa canh nông.
Cuốn truyện mô tả tỉ mỉ về đời sống của loài sói và nhiều loài vật đơn lẻ khác nơi thảo nguyên, với những tình tiết gay cấn, quyết liệt, lạ lùng và thần bí.
Người Nội Mông coi đồng cỏ là sinh mệnh lớn, và cùng với con người, những loài vật sống trong đó, đều là sinh mệnh nhỏ. Một khi đồng cỏ không còn, thì tất cả sự sống sẽ bị huỷ diệt...Trước đây, người ta vẫn quen nghĩ sói là kẻ thù của loài người. Nhưng ở đây, người Mông Cổ cho rằng sói chính là vị cứu tinh của đồng cỏ, là biểu tượng mà con người gửi gắm linh hồn...
Thông qua câu chuyện về loài sói, tác giả đã đặt ra hết sức tinh tế nhiều vấn đề phức tạp của đời sống như mối quan hệ giữa con người và con người, con người và dã thú...
Có mấy vấn đề chính được tác giả đề cập và giải quyết thấu đáo bằng những cứ liệu khoa học hết sức thuyết phục: về cân bằng sinh thái; đặt lại những triết thuyết, quan điểm về nguồn gốc của loài người: điều kiện tự nhiên để người vượn trở thành người.
Ngôn ngữ của Khương Nhung không có gì là đặc biệt, nhưng tôi tin ai đã cầm đọc thì khó có thể bỏ xuống dở chừng. Sức hấp dẫn của tác phẩm nằm ở lượng thông tin cực lớn, người đọc sẽ bị hút vào sự kiện và cách đặt vấn đề của tác giả.
- Vậy trong quá trình chuyển ngữ tác phẩm này, ông có gặp khó khăn gì không?
- Văn hóa du mục và cuộc sống, lịch sử vùng Nội Mông, cho đến nay hầu như có rất ít tư liệu đề cập tới, kể cả ở Trung Quốc. Có những tên riêng của các nhân vật lịch sử mà tôi phải mất rất nhiều thời gian tra cứu, tham khảo tài liệu, sách báo mới hiểu cho chuẩn xác và thấu đáo được. Tôi dành hẳn một năm để dịch tác phẩm này, vậy mà nhiều lúc bị cuốn vào nó không dứt ra được. Còn có thành công hay không, thì phải chờ bạn đọc đánh giá.
- Xin cảm ơn ông!
Mã Ba Thuấn - nhà phê bình văn học Trung Quốc:
Tôtem sói là một bộ sách lạ - một thư kỳ duy nhất trên thế giới- mô tả nghiên cứu về loài sói thảo nguyên Mông Cổ.
Đọc sách này, chúng ta được thưởng thức một món ăn tinh thần vô tận về tôtem sói. Bởi lẽ nó vô cùng phong phú, bởi lẽ nó không thể tái hiện. Vì rằng những đoàn thiết kị Mông Cổ và sói Mông Cổ tự do tung hoành trên thảo nguyên đang hoặc đã biến mất, tất cả những truyền thuyết, những câu chuyện về sói đang mất dần trong kí ức chúng ta.
Nhà văn Khương Nhung từng chui vào hang sói, đào bắt sói con, nuôi sói nhỏ, từng chiến đấu và cũng từng sống chung với sói, trải qua cuộc sống tinh thần du mục thời trai trẻ.
HỒNG MINH thực hiện
NGUỒN: www.nhandan.com.vn
Nguyễn Hoàng Diệu Thuỷ: Totem sói - Những cách đọc một tiểu thuyết Trung Quốc đương đại
28.8.2007
Trước các luồng ý kiến đa dạng về cuốn tiểu thuyết Totem sói hiện nay, tối 8/8/2007 Trung tâm Văn hoá-Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp với báo Người Hà Nội đã tổ chức buổi trao đổi về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của dịch phẩm này với sự tham gia của các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học, các dịch giả, văn nghệ sĩ có tiếng tại Hà Nội.
Tiểu thuyết Tôtem sói của tác giả Khương Nhung được Nhà xuất bản Công an Nhân dân ấn hành quý I năm 2007, đến nay đã hơn nửa năm mà dư luận vẫn chưa hết xôn xao. Người khen thì khen hết lời, cho rằng đó là bộ kỳ thư với những trang huyền bí đầy mê hoặc; rằng nó đã lý giải những câu hỏi còn bỏ ngỏ của lịch sử; rằng nó khơi gợi bất tận những xúc cảm mạnh mẽ; rằng nó cho thấy tâm huyết, lòng dũng cảm của tác giả đến nhường nào. Nhưng kẻ chê, chê cũng hết mức. Họ cho rằng Khương Nhung đầy nhầm lẫn về lịch sử và nhân chủng học; Khương Nhung té ra cũng chẳng có gì mới mẻ, chỉ là rao giảng lại thuyết "đấu tranh sinh tồn" và "chọn lọc tự nhiên" của Darwin; rằng Khương Nhung là kẻ đầu cơ tư tưởng sô-vanh sói, cổ vụ phát-xít, khuyến khích tội ác, sự bạo tàn... Có người còn tị: tác giả tả sói hay, tả chó hay, tả cừu và dê hay, tả muỗi cũng rất hay, chỉ có tả người là dở ẹc! Có người nặng lời đến độ cho tác giả là loạn ngôn, quái đản và bệnh hoạn. Có người cà khịa luôn cả dịch giả Trần Đình Hiến và Nhà xuất bản Công an Nhân dân. Ở Trung Quốc, và ở những nơi cuốn sách này có mặt, có lẽ người ta cũng đang tranh luận với nhau gay gắt như thế. Chỉ có một điểm chung mà người khen kẻ chê đều đồng tình, đó là tiểu thuyết thực sự có những trang sống động, hoành tráng và mê hoặc về sói và cuộc sống thảo nguyên.
Trên tất cả những điều đó, Tôtem sói vẫn là cuốn sách được đọc nhiều nhất ở Trung Quốc hiện nay. Các nhà xuất bản nước ngoài ráo riết đấu thầu mua bản quyền dịch nó. Một nhà xuất bản ở Tokyo đưa ra con số 300.000 USD riêng cho bản quyền đưa sách này lên phim hoạt hình. Nhà Penguin Books ở Anh đã lập kỷ lục khi ứng trước 100.000 USD mua quyền phát hành cuốn sách này bằng tiếng Anh trên toàn thế giới. Và Nhà xuất bản Bertelsmann đặt 20.000 Euro cho bản quyền bản tiếng Đức.
Trước các luồng ý kiến đa dạng về cuốn tiểu thuyết này, tối ngày 8/8/2007, tại Thư viện - Café Đông Tây (nhà 11A, phố Trần Quý Kiên, Cầu Giấy, Hà Nội), Trung tâm Văn hoá-Ngôn ngữ Đông Tây kết hợp với báo Người Hà Nội đã tổ chức buổi hội đàm về Tôtem sói với các nội dung chính: giới thiệu bản dịch Tôtem sói của dịch giả Trần Đình Hiến và những dư luận xung quanh tác phẩm ở Việt Nam và trên thế giới; trao đổi về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật tiểu thuyết; trao đổi về chất lượng bản dịch và về xu hướng chọn tác phẩm văn học nước ngoài để dịch sang tiếng Việt trong điều kiện xã hội-văn hoá Việt Nam hiện nay.
Đúng như dự đoán, cuộc trao đổi diễn ra sôi nổi và đầy hứng thú. Đã lâu rồi giới văn chương mới có dịp luận bàn về một tác phẩm rất độc đáo, lý thú, và không hề đơn giản như vậy. Các ý kiến thì nhiều, tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng rốt lại xoay quanh vấn đề: Văn chương hay chính trị, phát-xít hay không phát-xít.
PGS, TS Trần Ngọc Vương là người đầu tiên trình bày quan điểm của mình. Trước hết ông khẳng định rằng đây là một cuốn sách đáng dịch và đáng in. Việc Nhà xuất bản Công an Nhân dân nhanh tay mua bản quyền dịch Tôtem sói thể hiện tính năng động của xuất bản Việt Nam hiện nay - một xu hướng rất tích cực. Theo ông, bên trong cuốn tiểu thuyết rất nhiều vấn đề vượt ra ngoài nội dung của nó. Cuốn sách có hình hài một khảo luận khoa học, có tính chất dân tộc học, địa-văn hoá, lịch sử... Tóm lại nó hết sức phong phú và sống động. Dựa vào nó người ta có thể dựng những chương trình "thế giới động vật" hoặc một chương trình "discovery" hoành tráng và trung thực về cuộc sống thảo nguyên. Nhưng vấn đề tư tưởng trong cuốn tiểu thuyết cũng rất đáng bàn. Người Hoa Hạ vốn luôn cho mình là trung tâm của văn minh, văn hoá, cực kỳ coi thường "tứ di" (Đông Di, Tây Nhung, Nam Man, Bắc Địch). Thế nhưng trong lịch sử phát triển của mình, Trung Nguyên của người Hoa Hạ luôn bị các tộc du mục thiểu số miền Bắc tấn công, nhiều triều đại hùng mạnh của người Hoa Hạ bị lật đổ, lịch sử Trung Quốc bị đảo lộn. Triều Nguyên do đế quốc Mông Cổ dựng nên, nhà Thanh là triều đại của người Mãn, là những minh chứng rành rành. Và mỗi lần dân du mục "ghé thăm" Trung Nguyên là mỗi lần đất nước Trung Quốc được hà hơi tiếp sức, đất đai được mở rộng và bản đồ hành chính lại có một diện mạo mới. Hiện nay nhiều nhà văn hoá và trí thức Trung Quốc tin là có những cuộc tiếp sức ấy, nó là những đóng góp làm cho Trung Quốc phát triển như ngày hôm nay. Và xét ở góc độ này, Tôtem sói rất đáng suy ngẫm.
Nhưng ý kiến cho rằng cuốn sách có tư tưởng phát-xít, theo ông Trần Ngọc Vương, không phải là ý kiến của một người, nó không chỉ được sự đồng tình của nhiều độc giả trong nước mà còn có sự cộng hưởng quốc tế nữa. Bản thân ông cũng cho là cuốn sách không tránh khỏi màu sắc ấy. Cuốn tiểu thuyết rõ ràng cho thấy tư tưởng bá quyền của người Trung Quốc, và ý đồ của Khương Nhung còn là gì đó nữa chứ không đơn thuần là sáng tác văn chương. Không thể tiếp nhận nó đơn giản được. Đọc xong cuốn tiểu thuyết, ông cảm thấy băn khoăn thực sự.
Dịch giả Trần Đình Hiến - một dịch giả đã thành danh với nhiều dịch phẩm văn học Trung Quốc, đặc biệt là Mạc Ngôn - cũng chính là người đã chuyển ngữ tác phẩm Tôtem sói sang tiếng Việt. Ông cho biết, ông dịch Mạc Ngôn và Khương Nhung là mong muốn độc giả Việt Nam hiểu chính xác hơn về văn học Trung Quốc nhìn từ góc độ văn hóa, hoặc ngược lại, qua hình tượng nhân vật trong các tác phẩm văn học mà tìm hiểu và có sự nhìn nhận cho đúng về văn hóa Trung Quốc. Theo ông, người Trung Quốc xây dựng nhiều mẫu người lý tưởng nhưng những mẫu người đó rất không ổn. Ví dụ, các nhân vật chính diện trong Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử... được xây dựng như những người hùng của dân tộc Trung Hoa, nhưng gần như tất cả đều có lệch lạc nghiêm trọng về tính cách. Ở họ không có tình yêu nam nữ, không có tình cảm vợ chồng, không có sự ngưỡng mộ cái đẹp. Bởi vì họ bị chi phối bởi cách nhìn của Nho giáo về tình yêu, về cuộc sống gia đình và hạnh phúc cá nhân, rằng: thật sự anh hùng thì không được háo sắc, đã háo sắc thì không thể là anh hùng. Thế nên anh hùng phải là Triệu Tử Long chứ không phải Chu Du hay Lã Bố. Quá nửa trong số 108 anh hùng Lương Sơn Bạc không lấy vợ, hoặc có lấy cũng như không, coi sắc đẹp như kẻ thù. Họ làm như vậy để được tiếng "anh hùng"! Hoặc mẫu hình những anh thư sinh ẻo lả, nhu nhược kiểu Trương Thuỵ Quân (Dưới mái Tây hiên), chẳng làm được trò trống gì. Hoặc mẫu "trung thần, hiếu tử" luôn là những người có biệt tài khóc lóc, khóc giả mà như thật. Đọc văn học Trung Quốc cổ điển sẽ bắt gặp thường xuyên hình ảnh một đấng mày râu nào đó "đập đầu khóc mà rằng...". Những mô hình phiến diện và giả dối ấy là một phần của văn hóa Nho giáo, và nó đã biến người Trung Quốc thành những con cừu yếu hèn. Sự "cừu hóa" bắt đầu từ khi Hán Vũ đế chấp thuận kiến nghị của Đổng Trọng Thư: "Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật" (Gạt bỏ tất cả các nhà tư tưởng khác, chỉ dùng tư tưởng Nho giáo), tự bó chặt trong "tam cương", "ngũ thường", không cần cải cách, không cần phát triển. Kết quả là Trung Quốc kể từ triều Tống trở đi thua trận triền miên, phải cắt đất cầu hòa, bồi thường chiến tranh cho kẻ thắng trận..., và đến thời cận hiện đại, Trung Quốc bị bè lũ đế quốc "bổ như bổ dưa". Từ góc độ này mà xét, lời kêu gọi của tác giả Khương Nhung "phấn đấu vươn lên" là để tránh thảm họa bị hủy diệt, đâu phải hiếu chiến, đâu phải phát-xít! Với lại thời nay, định trở thành phát-xít đâu có dễ!
Trình bày quan điểm của mình, nhà văn Châu Diên nhắc đi nhắc lại: Phải xem Tôtem sói là một tiểu thuyết để đọc, ai không biết hay không coi nó là tiểu thuyết thì đừng đọc làm gì. Với cuốn tiểu thuyết này, ông quan tâm đến vấn đề thảo nguyên bị tàn phá, ông coi đó như là một ẩn dụ về những phong trào quái đản đã từng diễn ra trên đất nước Trung Quốc như diệt chim sẻ, diệt sói, khai hoang bừa bãi, chính sách đại nhảy vọt, chính sách gió Đông thổi bạt gió Tây... Kết cục của những phong trào ấy thế nào ai cũng biết, nó cũng như thảo nguyên tơ tướp sau sự càn quét của đám người từ Bắc Kinh về. Câu hỏi đặt ra là: đó là công lao hay tội ác của những người cầm quyền?
Nhà văn, nhà ngoại giao Nguyễn Trung cũng không giấu giếm suy nghĩ thực của mình về cuốn tiểu thuyết, ông nói ngắn gọn và chính xác: "Nói thật là tôi cảm thấy sợ. Tôi thừa nhận Tôtem sói mang lại nhiều điều mới lạ, hấp dẫn, nhưng nếu kêu gọi khuyến khích sói tính như vậy thì tôi thấy rất sợ".
Sau Nguyễn Trung, nhà thơ Hoàng Hưng trình bày khá thuyết phục quan điểm của mình, cử tọa nhiều người gật gù, có vẻ như ông đã nói trúng cái điều một số người đang nghĩ, và giải đáp được nỗi băn khoăn trong lòng một số người. "Không nên tiếp cận cuốn tiểu thuyết như là một quan điểm chính trị, cụ thể ở đây là tư tưởng bá quyền. Nếu muốn đọc về chính trị Trung Quốc thì sách vở hiện nay không thiếu, cần gì phải đọc cuốn tiểu thuyết này để tìm xem nó ám chỉ bá quyền hay không. Với lại Khương Nhung có giấu giếm "tư tưởng sói" đâu mà phải tìm kiếm, trong mỗi đoạn truyện, ông luôn cài những "lời bình" với chủ ý rõ rệt, đến cuối truyện thì có cả một chương nói trắng ra rồi. Mà tư tưởng bá quyền của Trung Hoa thì xưa nay ai còn lạ. Thế nên theo tôi, chẳng cần vì nói mỗi cái điều đã cũ này mà mất công viết cả một cuốn tiểu thuyết 700 trang làm gì. Tôi thì thấy rất thú vị ở chỗ: Khương Nhung có thành kiến rõ rệt với tâm lý tiểu nông hèn yếu, bạc nhược. Nó cản trở sự phát triển nên cần phải thanh toán nó đi. Trung Quốc phát triển như ngày nay là một biểu hiện của tinh thần sói, tinh thần sói để phát triển là hoàn toàn tích cực. Việt Nam ta không phải tâm lý tiểu nông cũng rất nặng nề hay sao? Tôi rất mê cuộc sống phóng khoáng, mạnh mẽ của thảo nguyên mà Khương Nhung miêu tả. Có thể tiểu thuyết có những vấn đề chính trị, nhưng cảm xúc, rung động của nhà văn trước sói, trước thảo nguyên đã át đi tất cả. Lâu lắm tôi mới được đọc những trang bát ngát và khiến tôi cảm thấy hứng khởi như thế, vì gần đây tôi phải đọc rất nhiều thứ về cuộc sống hiện đại, chật chội, xô bồ khiến đầu óc cực kỳ mệt mỏi, bí bách".
Xoáy vào vấn đề bá quyền, nhà giáo Vũ Thế Khôi đặt tiếp câu hỏi: Ta lên án "đại bá" thì thử nhìn lại mình xem mình có tư tưởng "tiểu bá" hay không? (Câu hỏi chắc sẽ làm cho nhiều người chột dạ!). Ông Vũ Thế Khôi cho rằng nếu viết tiểu thuyết chỉ là để cài vào một luận đề, một quan điểm chính trị nào đó thì nó chỉ còn là một cuốn sách minh hoạ tầm thường, và nó sẽ không được yêu mến, không được coi là tác phẩm văn học. Nói rằng cuốn tiểu thuyết này tuyên truyền cho tư tưởng bá quyền thì chẳng cần đọc Tôtem sói, ai cũng biết. Quan trọng là cuốn tiểu thuyết đã đem đến một thế giới mới với những góc nhìn mới về văn hoá Trung Hoa. Nó ca ngợi tinh thần sói như một động lực của sự phát triển, và như thế nó là một sự thức tỉnh cho chúng ta. Ông hoan nghênh Nhà xuất bản Công an Nhân dân đã tạo điều kiện cho độc giả Việt Nam được tiếp cận một hiện tượng văn học mới, cho dù có những người "la làng" rằng nó tuyên truyền chủ nghĩa phát-xít.
Tiếp tục câu chuyện chính trị hay là văn học, PGS, TS Nguyễn Thị Bình - giảng viên Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội nói: "Theo tôi, tôi thấy những mối quan tâm của nhà văn khác với mối quan tâm của người làm chính trị. Tôi không tin người làm chính trị lại có thể tả tiếng sói tru mãnh liệt và cảm động như Khương Nhung, lại có thể tả một thảo nguyên sống động, huyền bí nhưng cũng khốc liệt đến nhường ấy". Đồng thời bà đưa ra một khái quát về mô hình nhà văn mới trong đời sống đương đại: "Điểm hấp dẫn tôi nhất là ở chỗ: Tôi đọc Khương Nhung và thấy ông là một nhà khoa học viết văn, ông là nhà dân tộc học, môi trường học, hay một nhà nghiên cứu văn hoá cầm bút viết văn. Mô hình nhà khoa học viết văn - ta đã từng biết Dan Brown với Mật mã Da Vinci, Pháo đài số, nhà văn tiến sĩ Janusz Leon Wisniewski với Cô đơn trên mạng... - là một mô hình mới đầy hấp dẫn. Đương nhiên vẫn có nhiều nhà văn kiểu truyền thống tài năng, như Mạc Ngôn, nhưng khi so sánh hai mô hình thì tôi chợt cảm thấy Mạc Ngôn đã già và cũ. Tôi cũng cảm thấy độc giả ngày nay bắt đầu cần nhiều thứ ở nhà văn hơn, đòi hỏi của họ cao hơn và thị hiếu cũng khác".
TS. Đào Duy Hiệp, Khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - Hà Nội là người duy nhất không bàn đến chuyện bá quyền hay không bá quyền, mà mổ xẻ Tôtem sói bằng con dao lý luận của một nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học để chỉ ra nội dung tư tưởng và nghệ thuật của nó. Theo ông, người ta có thể đọc cuốn tiểu thuyết này từ góc độ văn hoá, lịch sử, dân tộc, nhân chủng học, hay chỉ đọc về thế giới loài sói, tuỳ ý. Một cuốn tiểu thuyết mà người ta đọc từ góc độ nào cũng thu được một điều gì đó thì nhất định nó không tầm thường. Nhà tiểu thuyết cần phải đồng thời là một nhà văn hóa, nhà triết học, nhà tư tưởng thì tác phẩm mới vĩ đại được. Ông tán thành ý kiến về tiểu thuyết của Mạc Ngôn đã được dịch trên báo Văn nghệ cách đây một, hai năm, đại ý: tiểu thuyết phải như hổ, báo, voi, phải là khu rừng rậm rạp, cây to, biển lớn chứ không phải nhím, thỏ, suối, lạch róc rách... Nó khác với truyện ngắn. "Một nhà văn mà đưa được vào tiểu thuyết của mình nhiều vấn đề để suy tư, chiêm nghiệm đằng sau các hình tượng là đã thành công rồi".
"Tuy nhiên, đứng về nghệ thuật tự sự hiện đại, trong cả dãy tác phẩm Trung Quốc đã được dịch ra ở Việt Nam như Linh sơn, Phong nhũ phì đồn hoặc các tác phẩm của Giả Bình Ao, thì nghệ thuật tự sự trong Tôtem sói không hấp dẫn bằng các tác phẩm trên. Nó chỉ kể thuần sự kiện theo niên biểu ở ngôi thứ ba về: sói, tuyết, băng, những cuộc đi săn, sự học hỏi của nhân vật Trần Trận, ông già Pilich khôn ngoan,... mà thiếu những quãng ngưng trữ tình hoặc triết lí. Chính vì vậy, cuốn tiểu thuyết không khỏi rơi vào kể lể, đơn điệu. Nhưng sự thực thì tiểu thuyết hiện đại không vụ vào sự việc, mà nó hướng tới cái gì đó sâu xa bên kia sự việc, rộng lớn hơn bản thân sự việc. Trong tác phẩm, mỗi ngày mới, mỗi bước chân của nhân vật Trần Trận là một ngày anh ta "vỡ lẽ" ra nhiều điều về lịch sử, phong tục, dân tộc, thiên nhiên hoang dã qua việc tìm hiểu về sói. Có lẽ đó là ý đồ tự sự của tác giả để qua đó ông trình bày quan điểm của mình. Ta cũng cần tôn trọng".
Buổi toạ đàm kết thúc với các vấn đề còn bỏ ngỏ, bởi vì với một tác phẩm hoành tráng như Tôtem sói, việc hiểu, cắt nghĩa, lý giải nó không đơn giản chút nào. Chỉ biết rằng đến hôm nay, người ta vẫn đổ xô đi tìm đọc nó. Và người ta tự hỏi, bao giờ Việt Nam có được những tác phẩm như thế, và bao giờ chúng ta có những nhà khoa học viết văn như thế.
© 2007 talawas
Hà Minh. Tôtem sói cảnh báo về hiểm họa môi sinh đến từ con người
1.10.2007
Tôtem sói là một "best-seller" trong năm 2004 ở Trung Quốc. Tôtem sói gây dư luận khá ồn ào ở Việt Nam, với nhiều bài bình luận trên các diễn đàn, báo chí, nhiều ý kiến phong phú, đa dạng, đôi khi mâu thuẫn. Đó là những lý do khiến tôi tìm đọc toàn bộ tác phẩm qua bản dịch của Trần Đình Hiến, dịch giả quen thuộc với các tác phẩm văn học Trung Quốc đương đại nổi tiếng. Ta hãy thử phân tích một vài khía cạnh như nghệ thuật, tư tưởng và nội dung của Tôtem sói.
Về nghệ thuật: một cuốn tiểu thuyết bình thường
Có thể nói ngay rằng, Tôtem sói khá bình thường về mặt nghệ thuật, diễn biến tâm lý nhân vật rất tuyến tính đơn giản, không mâu thuẫn lớn, không đặc sắc, nghèo yếu tố "tiểu thuyết", văn phong dáng dấp nghiệp dư, bút lực không thâm hậu, thiếu chiều sâu suy tư. Toàn bộ tác phẩm như một ghi chép mang tính nghiên cứu về hệ sinh thái thảo nguyên, về loài sói, về người dân du mục. Tác phẩm dàn trải đều đều đôi lúc gây sự nhàm chán. Chuyển thể điện ảnh sẽ là một thất bại có thể dự đoán trước.
Về tư tưởng: "Sói tính" nào quyết định yếu tố thành công?
Tác giả Khương Nhung luôn đưa ra những nhận định chủ quan hoặc những suy diễn về tính cách các dân tộc, sự phân loại "du mục" và "nông canh"; gán ghép những thành công về quân sự của người Mông Cổ trong quá khứ lịch sử với tính cách sói, và luôn thể "khái quát hóa" ra một quy luật về thành công trong xã hội đương đại, cho rằng nó phải gắn liền với sói tính, tức là hung dữ, mạnh mẽ, dũng cảm. Những nhận định đó có phần nào đúng, nhưng phần lớn là ngộ nhận, gán ghép thiếu biện chứng. Yếu tố thành công của các xã hội đương đại không phải ở chỗ hung dữ, can đảm, mưu trí như loài sói mà yếu tố chính là tinh thần tôn trọng tự do, thậm chí tôn trọng tự do tuyệt đối, không thoả hiệp của loài sói. Đó chính là yếu tố căn bản nhất của một xã hội bình đẳng, tự do phải là yếu tố căn bản trước khi mưu cầu mọi chuyện khác. Nếu không có tự do, sẽ không có bình đẳng, mọi chuyện sẽ lệ thuộc vào sự ban phát của kẻ khác. Đó là điểm khác biệt rất cơ bản giữa Sói và Chó. Sói xác định lãnh địa của mình song song tồn tại với người và các chủng loại động thực vật thảo nguyên, sói khước từ sự thỏa hiệp với người. Nếu lãnh địa sói bị xâm phạm, sói trả thù. Con người có thể đẩy sói đến bờ vực tuyệt diệt, để biến thảo nguyên hoang sơ thành nông trang, nhưng con người có thể mắc những sai lầm rất tai hại khi quyết định phá vỡ sự cân bằng sinh thái đã định hình hàng vạn năm. Trong đó sói là một bộ phận, bộ phận này sẽ kháng cự tới lúc bị lâm vào tuyệt diệt, quyết không bị "thuần hóa". Điểm nhấn này Khương Nhung không nêu bật ra một cách trực tiếp nhưng gián tiếp thông qua hình ảnh sói con thà chết, bị kéo lê theo xe bò, dây da rằng xiết đứt cuống họng, móng bị mài cụt lủn, tóe máu, chứ nhất định không chịu khuất phục để bị con người dẫn dắt.
Về mặt nội dung: phong phú, chi tiết và có nhiều khám phá đặc sắc
Khương Nhung đã kiến tạo được những trang viết hết sức đặc sắc về thảo nguyên, từ những quan sát tỉ mỉ, những tư liệu chính xác thu lượm được trong thời gian lưu lại ở thảo nguyên Ơlôn: nhân vật Trần Trận, một thanh niên trí thức Bắc Kinh tình nguyện về vùng thảo nguyên Ơlôn của khu tự trị Nội Mông tham gia thực tế sản xuất với vai trò của một "dương quan" (người chăn dê). Cậu đã học hỏi và quan sát được rất nhiều điều về cuộc sống thảo nguyên và đặc biệt qua "già làng" Pilích người Mông Cổ với rất nhiều kinh nghiệm thảo nguyên. Trần Trận hiểu thêm về loài sói, một thứ linh vật (tôtem) của người du mục và về cân bằng sinh thái thảo nguyên, vai trò con người và sói trong sự cân bằng ấy. Dương Khắc, một thanh niên trí thức bạn tri kỷ của Trần Trận, là một người rất yêu thiên nhiên và căm ghét những vì kẻ hám lợi mà tàn phá thiên nhiên qua sự săn bắt và khai hoang quá mức (cậu đã khóc khi chứng kiến bầy thiên nga hoang dã bị tàn sát bằng cung tên). Ngoài ra, tiểu thuyết có phác họa một số nhân vật khá mờ nhạt như Caxưmai, phụ nữ Mông Cổ, (gái hai bẩy bẻ gẫy... đuôi sói) vợ của Batu con trai ông Pilích; Batu chàng chăn ngựa "mã quan" (một thứ cao-bồi Mông Cổ không có mũ rộng vành và không bắn súng hai tay! Dám mò vào hang sói khi mới lên mười); Trương Kế Nguyên thanh niên trí thức được tập sự chăn ngựa; Bao Thuận Quý, cán bộ phụ trách trung toàn mục trường (như chức chủ nhiệm hợp tác xã) đại diện cho giới lãnh đạo ngu dốt bảo thủ duy ý chí. Và vài nhân vật lẻ tẻ khác như lão Vương, kẻ chuyên săn trộm (poacher - "kẻ cắp rừng xanh", kẻ phá tổ thiên nga và tàn sát rái cá thảo nguyên), Xasưleng, Lamutrắc, hai mã quan cùng tổ của Batu. Không thể không nói đến "lang vật" chính của tiểu thuyết là sói con, một con sói bị Trần Trận bắt về nuôi thực nghiệm, phần chính của tiểu thuyết là những quan sát của Trần Trận về chú sói con. Chú sói con đã làm Trần Trận và độc giả đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Đối lập với sói là chó nhà, loài vật được Khương Nhung mô tả tỷ mỉ, sinh động: những chú chó chăn cừu của người Mông Cổ như Balưa, Nhị Lang, Vàng với tính cách rất đặc trưng như trung thành, hung dữ, chiến đấu với sói rất quả cảm. Đôi khi "bản năng gốc" của chó nhà vẫn còn, như Nhị Lang thèm thịt cừu "tươi sống". Chúng thể hiện tính phục tùng tuyệt đối với chủ, để đổi lại là sự ban phát "vật chất". Nếu lũ chó nhà "trung thành" như Hồng Vệ binh gặp "minh chủ" như ông già Pilích, cuộc sống thảo nguyên sẽ duy trì như đã diễn ra hàng ngàn năm trước, ngược lại gặp người thiển cận như Bao Thuận Quý, sức phá hoại sẽ rất ghê gớm.
Câu chuyện bắt đầu từ những kinh nghiệm đầu tiên của Trần Trận khi gặp sói. Trần Trận được ông già Pilích dẫn đi theo dõi sói săn dê vàng. Cậu hết sức hồi hộp và cảm phục sự khôn ngoan, kiên trì của sói. Lần khác do thiếu kinh nghiệm đi thảo nguyên, Trần Trận sa vào "ổ phục kích" của bầy sói. May mắn sao, Trần Trận nhớ lời dặn của ông già Pilích, gõ mạnh hai chiếc bàn đạp vào nhau phát tiếng động chói tai, làm bầy sói nghi hoặc không dám tấn công, cậu thoát hiểm trong gang tấc. Trần Trận bắt đầu "mê" sói qua lời chỉ dạy của ông già Pilích, cậu là người Hán đầu tiên dám tự mình đi đào hang sói bắt sói con. Kỳ công của Trần Trận là chăm sóc "bú mớm" cho sói con và quan sát nó rất tỷ mỉ để phát hiện những bản năng gốc của sói: đào hang, ăn, ngủ, tập săn mồi (tưởng tượng), tập tru tiếng sói, (lắng nghe tiếng gọi nơi hoang dã) và chứng kiến sự kết thúc bi thảm của thực nghiệm nuôi sói, con sói chết vì không chịu khuất phục.
Tiểu thuyết có tả cảnh thu hoạch chiến lợi phẩm từ sói, trong đó ông già Pilích dẫn mục dân đi thu hoạch dê vàng rơi xuống hồ nước đóng băng. Khương Nhung tiếp tục dẫn dắt người đọc qua những diễn biến trên thảo nguyên như: con người gây hấn với sói (đi đào hang bắt sói con), bão tuyết, sói trả thù bằng cách tiêu diệt đàn ngựa. Điều đáng nhớ nhất là, ông già Pilích, người duy nhất nắm bắt quy luật của sói và chỉ huy cuộc "bố ráp" thành công nhưng cũng chính lại là người đau lòng nhất khi thấy sói bị tàn sát. Ngược lại, Bao Thuận Quý, đại diện cho sự quan liêu, duy ý chí, và thiển cận vì món lợi ngắn (da sói và đàn cừu) hạ lệnh dùng "hỏa công" diệt sói. Trần Trận đã tận mắt thấy sự thất bại của Bao Thuận Quý khi sói không chết mà hai chú bò đực thảo nguyên chết oan.
Tả cảnh đoàn người theo ông Pilích đi thám hiểm và phát hiện mục trường mới, ngây ngất trước cảnh đẹp hoang sơ nguyên thủy, Khương Nhung có những trang viết rất hứng khởi, tuyệt vời. Đây là những trang viết trong đó bút pháp Khương Nhung thật sự khởi sắc.
Quan niệm về hệ sinh thái và con người: cập nhật và tỉnh táo
"There is a sufficiency in the world for man's need but not for man's greed"
(M. K. Gandhi)
Thông qua hai nhân vật Trần Trận, Dương Khắc và cả ông già Pilích, Khương Nhung thể hiện rõ lòng tôn trọng thiên nhiên, ước vọng muốn bảo tồn thiên nhiên trong trạng thái hoang sơ của nó với quan niệm: Con người cũng bình đẳng như các loài động vật khác, có quyền khai thác thiên nhiên một cách hợp lý, nhưng không vì tính chất thượng đẳng (superiority) của mình mà trục lợi từ thiên nhiên một cách thái quá. Đây là điểm đáng quý nhất trong nhận thức của tác giả từ thời kỳ Cách mạng Văn hóa, khi tâm lý con người và suy nghĩ chung bị "mê muội" hóa bởi những giáo điều như "Đại nhảy vọt", "Diệt chim sẻ", v.v...
Đoạn đặc tả Bao Thuận Quý và các "tư lệnh" dùng xe com-măng-ca truy đuổi một con sói chạy đến đứt ruột mà chết rất ấn tượng. Nó thể hiện tính chất độc ác và "lưu manh"của những con "thú hai chân" khi cậy nhờ phương tiện hiện đại để bức tử một sinh vật làm trò tiêu khiển.
Bài học từ Tôtem sói: Mâu thuẫn giữa phát triển và môi trường
Nature provides a free lunch, but only if we control our appetites.
(William Ruckelshaus)
The earth we abuse and the living things we kill will, in the end, take their revenge; for in exploiting their presence we are diminishing our future.
(Marya Mannes)
Trái đất ngày càng bé lại, ngôi nhà chung của nhân loại ngày càng thu hẹp bởi sự gia tăng dân số. Con người về một mặt, đã đạt được những thành tựu khoa học kỹ thuật to lớn. Mặt khác, do sức ép dân số và phát triển kinh tế (dĩ nhiên để thỏa mãn nhu cầu vật chất cho chính con người), con người đã lạm dụng thiên nhiên, khai thác tài nguyên quá mức, dẫn đến những hậu quả nhãn tiền: ô nhiễm, khí thải, hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên, hiện tượng El Nino, hạn hán, cháy rừng, phá rừng, bão lụt,... có lẽ đó là cái giá phải con người đang trả khi lạm dụng thiên nhiên.
Tình hình chung ở các nước đã phát triển là: Đô thị tiếp tục lớn dần, khói bụi nhiều thêm, diện tích cây xanh giảm đi, thực phẩm nuôi trồng công nghiệp tăng năng suất, con người thiếu vận động, mắc bệnh béo phì và kéo theo đủ thứ bệnh. Còn các nước đang phát triển thì hố sâu phân cách giầu nghèo lớn dần lên, gia tăng đầu tư công nghiệp hóa, đô thị hóa vô tội vạ bằng vốn tự có hay vốn vay, thiếu sự quan tâm chín chắn về tác động tiêu cực đến môi trường. Người nghèo bươn chải trong môi trường hết sức độc hại như rác thải, nước nhiễm độc, nhiễm bẩn, ung thư, bệnh dịch. Người nghèo làm mọi thứ hiểm nguy để sinh tồn, như phá núi nung vôi, phá ruộng đào vàng, phá rừng khai thác gỗ lậu, săn bắt thú quý hiếm như ngà voi, sừng tê, cao hổ, ăn nhậu các loại thịt rừng, khai thác du lịch quá mức. Những đàn voi rừng điên cuồng giận dữ về phá ruộng nương, giết người, vì bị tước đoạt môi trường sống, không khác gì Sói Ơlôn bị truy bắt phải báo thù. Hổ báo tiếp tục bị buôn bán để nấu cao, gấu rừng bị nuôi lấy mật. Chúng ta có thói quen "chưa thấy quan tài chưa đổ lệ", nay cỗ quan tài ấy đã đang từ từ mở nắp: Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có tỷ lệ giao thông tắc nghẽn và tai nạn cao nhất thế giới, nạn úng ngập do triều cường sẽ gia tăng và trở thành hiểm họa. Những dòng sông đang bị khai tử, những núi rác thải thiếu nơi xử lý... Cái giá phải trả cho "phát triển" chụp giựt sẽ vô cùng lớn.
Câu hỏi lớn về thế nào là cân bằng sinh thái, thế nào là khai hoang và tác dụng ngược của việc khai hoang, sa mạc hóa các thảo nguyên do chăn thả quá mức, chưa bao giờ được trả lời một cách nghiêm túc. Một nhóm nhỏ người ra sức bảo vệ môi trường, bảo vệ động vật, bảo vệ rừng nguyên sinh trong khi đa số lại đang ra sức tận thu, lạm dụng môi trường. Đây quả là cuộc đối đầu không cân sức. Vấn đề môi trường đã trở nên bức bách, các quốc gia đang ngồi vào bàn thương lượng về chiến lược cho tương lai. Hãy hành động trước khi quá muộn.
© 2007 talawas