1. Sự tham gia của tôn giáo vào quá trình giáo dục nói chung
Điểm đặc biệt trong hoạt động giáo dục của các tổ chức tôn giáo ngày nay là khoảng hai phần ba (67%) các trường tư của tôn giáo là trường Kito giáo. Tuy tỉ lệ các tín đồ Kito giáo hiện chỉ chiếm hơn 1% dân số Nhật Bản, song tỉ lệ trường học của tôn giáo này khá cao. Các trường Thần đạo, ngược lại, lại chiếm tỉ lệ rất thấp trong khi có tới hơn 80 ngàn đền thờ và khoảng 100 triệu người theo các tín ngưỡng hay phong tục Thần đạo (trong tổng số khoảng127 triệu dân). Trong số các trường Kito giáo thì trường Tin lành có từ trước chiến tranh, trường Thiên chúa giáo có từ sau khi chiến tranh kết thúc, các trường do các tổ chức tôn giáo mới lập ra tăng lên đáng kể từ sau Chiến tranh. Các trường Kitô giáo có ở Nhật Bản từ năm 1868, tuy nhiên do tình hình nước Nhật khi đó chưa ổn định nên nhiều nhà truyền giáo lập ra các trường dưới danh nghĩa trường tư thục, như trường tư thục dạy tiếng Anh. Năm 1873, lệnh cấm Kitô giáo được bãi bỏ và việc truyền bá Phúc âm càng trở thành một nhiệm vụ quan trọng của các đoàn truyền giáo. Lúc này, đã xuất hiện một số trường Kito giáo do người Nhật Bản lập ra.Trong nửa đầu thế kỷ XX, Kitô giáo tuy gặp một số khó khăn nhưng một số trường mới vẫn được lập ra. Sau Chiến tranh Thế giới II, số lượng các trường Kitô giáo bắt đầu tăng lên, đặc biệt là sự gia tăng của các trường Thiên chúa giáo.
Theo những số liệu được công bố trong tác phẩm «Phân tích so sánh về đại học tư tôn giáo ở Nhật Bản - lấy biến số theo quy chế» (日本における宗教系大学の比較分析 - 制度的変数を中心として), Takanori Saito (Khoa Nghiên cứu Giáo dục học của Viện Đại học-Đại học Tokyo, xuất bản năm 2014), người ta nhận thấy số lượng trường học thuộc Kito giáo chiếm số lượng áp đảo so với trường học của Phật giáo, Thần đạo và tôn giáo mới, đặc biệt là số lượng trường ở bậc Đại học và Đại học ngắn hạn. Tiếp sau Kito giáo là các trường của Phật giáo, các trường của Thần đạo và tôn giáo mới chiếm số lượng ít ỏi. Do số lượng các tổ chức Kito giáo khá ít ỏi (chỉ chiếm 2,45% tổng số các tôn giáo pháp nhân) nên tỷ lệ trường học thuộc Kito giáo so với tỷ lệ tổ chức tôn giáo pháp nhân thuộc Kito giáo khá cao (chiếm 26,94%). Tuy Kito giáo không thành công trong việc thu hút tín đồ (chỉ chiếm khoảng 1% so với tổng số dân, trong khi tín đồ Phật giáo chiếm 43%, tín đồ Thần đạo chiếm 51%), song trong lĩnh vực giáo dục, có thể thấy Kito giáo đã đạt được thành tựu nhất định. Lý giải cho điều này, Kito giáo được coi là khá thành công khi tạo cảm giác thân thiện cho người dân về hình ảnh tôn giáo của mình. Không chỉ là những đám cưới kiểu Kito giáo ở nhà thờ được ưa thích, ngay trong giới nữ sinh trung học chuẩn bị tốt nghiệp, đã lan truyền các kiểu nói như «3K», «3B», trong đó 3K là «キリスト教系、かわいい、かねもち»(tức «Kirisuto kyo kei-kawaii-kanemochi» hay «Kito giáo, dễ thương, giàu có», còn 3B là “仏教、ぶす、びんぽう“(tức «Bukkyo kei-busu-binpou» hay «Phật giáo, xấu, nghèo») (Tachibanaki Toshiaki (橘木俊詔), Tôn giáo và trường học (宗教と学校), Nxb Kawade, 2013). Hơn nữa, các trường Kito giáo đều khá nỗ lực để thu hút học sinh, từ việc không quá nhấn mạnh vào việc mình là một trường của tôn giáo để mở rộng cánh cửa cho mọi đối tượng, tuyển thí sinh bằng cả thi cử và thành tích thể thao, nhằm quảng bá cho trường của mình, đưa hình ảnh của mình đi khắp nơi. Mặt khác, trường Kito giáo có khá đông các linh mục độc thân làm công tác giảng dạy, họ dành toàn bộ cuộc sống để làm công tác dạy học, nên sự đầu tư và tâm huyết dành cho trường của mình càng tăng.
Số lượng trường tư đông đảo thứ hai là trường thuộc Phật giáo, trong số này có một số trường có từ cuối thời Tokugawa bắt nguồn từ các chùa Phật giáo, một số trường lại bắt đầu từ các tôn giáo viện địa phương trong hệ thống giáo đạo chức thời đầu Minh Trị và tiếp tục duy trì khi hệ thống này bị bãi bỏ. Bắt nguồn từ sự bài bác Phật giáo của phong trào «Bài Phật huỷ thích» (廃仏毀釈 ) đầu thời kỳ Minh Trị và sự mở rộng ảnh hưởng của Kitô giáo, nhằm bảo vệ tính hợp pháp của mình và đối phó với sự lan rộng của Kitô giáo, Hiệp hội giáo phái Phật giáo được hình thành vào năm 1869, hàng loạt các tổ chức của các phái Phật giáo ra đời, lập ra các trường học của mình. Các trường như Đại học Joudo Shinshuu (浄土真宗大学- Tịnh thổ Chân tông), Đại học Ryukoku (硫国大学), Đại học Otani (小谷大学) .v.v…được công nhận chính thức vào năm 1922.
Về các trường thuộc Thần đạo, Đại học Kokugakuin và Đại học Kogakkan là hai đại học của Thần đạo nhằm đào tạo các giáo chức Thần đạo, tuy vẫn đào tạo cả sinh viên bình thường. Tuy trước Chiến tranh và trong thời gian Chiến tranh, Thần đạo được Chính phủ đối xử đặc biệt so với các tôn giáo khác, trong các trường công đều có các giờ giảng về Thiên hoàng, song sau Chiến tranh Thần đạo Quốc gia bị bãi bỏ, các phái Thần đạo còn lại có tư cách ngang với các tổ chức tôn giáo khác. Số lượng trường phổ thông trung học thuộc Thần đạo rất ít, thậm chí có một số trường trong số các trường Trung học và phổ thông trung học thuộc Thần đạo không có giờ học về Thần đạo.
Số lượng trường học của các tôn giáo mới tuy chưa nhiều, song vẫn còn tăng lên. Đa số là các trường trung học cơ sở, các trường trung học phổ thông và đại học tuy chưa nhiều nhưng cũng đang tăng lên. Xuất phát từ nhu cầu đào tạo nhân lực, nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp và thu hút tín đồ, một số tổ chức tôn giáo mới tiêu biểu như Konkoukyo (金光教), Tenrikyo (天理教), Soka Gakkai (創価学会), Risshou Kouseikai (立正佼成会) và các tổ chức khác đã chú trọng đầu tư vào giáo dục. Các tôn giáo mới thường đứng sau bảo hộ cho một tổ chức có tư cách pháp nhân giáo dục. Các tổ chức lớn như Sokagakkai, P.L Kyodan, Risshou Kouseikai đã mở được hệ thống các trường học từ tiểu học đến đại học.
Mục đích giáo dục của các trường tôn giáo thể hiện khá rõ: các trường của Kito chú trọng rao giảng Phúc âm, quan tâm tới việc giáo dục các nữ thanh thiếu niên, các trường của Phật giáo nhằm giáo dục các nam thanh thiếu niên, các trường Thần đạo nhằm đào tạo những giáo chức Thần đạo, các trường của các tôn giáo mới có nhu cầu đào tạo các nhà lãnh đạo tương lai, giáo dưỡng thanh niên và tuyên truyền hình ảnh của mình nhằm gây được uy tín với xã hội.
2. Giáo dục nội dung tôn giáo trong trường học
Về nội dung giáo dục tôn giáo trong trường học, có thể chia giáo dục tôn giáo làm 3 loại: một là giáo dục của các giáo phái theo lập trường của một tôn giáo cụ thể nào đó; hai là giáo dục kiến thức tôn giáo, ba là giáo dục nhằm giáo dưỡng lý tưởng tôn giáo. Ba loại giáo dục nêu trên đều được phép trong các trường tư, nhưng trong các trường công, trường của địa phương lại nghiêm cấm loại giáo dục thứ nhất. Loại giáo dục thứ hai, nhằm nâng cao tầm hiểu biết về tôn giáo nói chung thì được cho phép, còn loại giáo dục thứ ba được cho phép trong chừng mực, tuy cũng có ý kiến phản đối.
So với trước Chiến tranh, nhiệt tình đối với tôn giáo của người dân có phần giảm sút nên trong các trường do các tổ chức tôn giáo thành lập thì mục tiêu có tính tôn giáo cũng giảm đi. Các trường bậc cao hoạt động dưới sự bảo trợ của các tổ chức tôn giáo tuy có những giờ học tôn giáo bắt buộc, phần lớn các tài liệu giảng dạy có liên quan đến các tổ chức tôn giáo tài trợ, song không đem lại những kết quả tích cực. Các trường phổ thông trung học cơ sở và phổ thông trung học do các tổ chức tôn giáo bảo trợ có các bài giảng dạy về tôn giáo mỗi tuần một lần, còn một số trường đại học loại này thì mục tiêu đào tạo các giáo đạo chức trở nên mờ nhạt dần, nên các sinh viên học các trường như vậy cũng không khác nhiều với các sinh viên trường bình thường. Đa số học sinh, sinh viên Nhật Bản khi chọn trường thì đẳng cấp của trường là quan trọng, trường nào sau khi tốt nghiệp dễ tìm việc làm hay có thể tiếp tục học cao hơn sẽ được lựa chọn, vì vậy trường đó thuộc tôn giáo nào không tác động nhiều tới quyết định của họ. Việc các học viên ít quan tâm đến tôn giáo có tác dụng hai mặt : một mặt giúp các trường thu hút thí sinh dự thi đông nếu trường có uy tín, song mặt khác lại khiến việc giảng dạy về tôn giáo- một mục tiêu của trường tư tôn giáo, gặp khó khăn.
Sau Chiến tranh, các tôn giáo cố gắng đầu tư vào giáo dục để tạo uy tín với xã hội và thu hút tín đồ, song kết quả cũng chưa khả quan. Trong xã hội Nhật Bản hiện nay, có xu hướng muốn phát huy vai trò giáo dưỡng đạo đức của tôn giáo và muốn đưa những nội dung như vậy vào giáo dục nhà trường. Những người thuộc khuynh hướng bảo thủ cho rằng cần tăng cường giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, đồng thời với việc giáo dục về Thần đạo. Việc không giáo dục về Thần đạo trong nội dung giáo dục nhà trường là việc làm «cắt đứt truyền thống». Tuy nhiên, ở Nhật, ám ảnh của Chiến tranh Thế giới thứ II vẫn hiện diện; nên tôn giáo, trước hết là Thần đạo và chủ nghĩa quân phiệt, cũng là một trong những đề tài rất phức tạp gây ra tranh luận. Với quá trình cải cách giáo dục Nhật Bản đang tiến hành hiện nay, vai trò giáo dưỡng đạo đức của tôn giáo cũng được đưa ra tranh luận và thừa nhận trong nội dung giáo dục nhà trường phổ thông, sau khi đã loại trừ những tư tưởng mê tín dị đoan, kích thích hình thành bạo lực và chủ nghĩa siêu quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Thu Giang, Cống hiến mang tính xã hội của giới Phật giáo Nhật Bản- Sự kết hợp giữa đào tạo tăng sư và giáo dục quốc dân ở các trường đại học Phật giáo, Bài giảng chuyên đề nghiên cứu Nhật Bản- lịch sử văn hóa- xã hội, tr. 147- 162, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2010.
2. Phạm Hồng Thái, Tìm hiểu chính sách tôn giáo của nhà nước Nhật Bản, Nhà nước và giáo hội (Chủ biên: Đỗ Quang Hưng), tr. 315- 326, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2003.
3. Phạm Hồng Thái (Chủ biên), Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
4. Susan D. Holloway, The Role of Religious Beliefs in Early Chilhood Educa- tion: Christian and Buddhism Preschool in Japan, United States, 1999 .
5. Inoue Nobutaka ,The possibility of education about religious culture in public schools, Kokugakuin University, Japan, 2007.
6. Saito Takanori,日本における宗教系大学の比較分析 - 制度的変数を中心として, 東京大学, 2014.
7. Tachibanaki Toshiaki,宗教と学校, 河出書房新社, 2013.
8. Inoue Nobutaka, Recent Trends in the Study of Japanese New Religions
Website: http://www2.kokugakuin.ac.jp/ijcc/wp/cpjr/newreligions/ inoue.html.
9. Yamashita Shuhei, 私立学校における宗教教育の現状と課題、
和光大学、人間関係学部、卒業論文、
Website: www.wako.ac.jp/hattatsu/.../05d088yamashitasyuhei.pdf
10. 学校における「宗教にかかわる教育の研究(1)」、
Website: www.chu-ken.jp/pdf/kanko78.pdf
11. 小幡啓靖、宗教系私立学校の宗教教育の理念に関する研究、東京大学
Website: repository.dl.itc.u-tokyo.ac.jp/.../1/KJ00002358716.pdf
12. Chido Takeda, School Education and Religion in Japan, Rissho University, Japan.
Website: https://nirc.nanzan-u.ac.jp/nfile/3200
Nguồn: cjs.inas.gov.vn