4. Tế thần linh cúng tổ tiên:
Đêm giao thừa, việc làm quan trọng nhất là tế thần linh và tổ tiên. Phong tục này là lưu truyền từ tập tục “lạp tế”, “báo đáp ơn thần cuối năm” của thời cổ đại xa xưa. Tế thần linh cúng tổ tiên luôn luôn tiến hành cùng lúc, nhưng cũng có khi tế thần linh trước sau mới cúng tổ tiên. Cúng tế trời đất thần linh, cảm tạ ơn các thần đã ban cho trong năm vừa qua, khấn cầu các thần trong năm mới phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu là mục đích chủ yếu của tế tự. Cúng tế tổ tiên là để khấn cầu tổ tiên linh thiên phù hộ cho con cháu thịnh vượng phát đạt, sự nghiệp phồn vinh. Xã hội truyền thống Trung Quốc là xã hội nông nghiệp chế độ tông pháp, trong gia tộc cùng huyết thống có mối liên hệ mật thiết giữa các thành viên, họ rất xem trọng việc trở về của tổ tiên, cho nên hoạt động cúng tổ tiên rất long trọng và náo nhiệt.
Xã hội cổ đại Trung Quốc rất tôn kính trời đất, thần linh, tổ tiên, Hoàng đế có tổ miếu, xã tắc đàn, thiên đàn, địa đàn, v.v.; dân thường đều có bài vị “thiên địa quân sư thân”. Dưới sự ảnh hưởng lâu dài của Nho gia “dĩ thần đạo thiết giáo”, quan niệm truyền thống “tôn thần sự quỷ”, “thận chung truy viễn” hình thành trong xã hội dân gian đã ăn sâu thâm căng cố đế. Lúc ăn tết, nhà nhà đều ở từ đường thờ bài vị liệt tổ liệt tông, dâng cúng vật phẩm, đốt đèn đốt nhang thơm, nhang khói nghi ngút, hiếu tử hiền tôn chỉnh tề nghiêm túc vái lạy.
Trước đây, Bắc Kinh sau ngày hai mươi ba tháng chạp, lần lượt thỉnh “thần chủ” (bài vị tổ tiên), hoặc “thần ảnh” (hình tổ tiên), bày đồ cúng. Đồ cúng nói chung gồm một đĩa Gongmi 供蜜 (mì rán thành sợi nhỏ, để thành hình tháp), một đĩa bánh, một đĩa trái cây; có khi thêm một đĩa bánh phù dung, trên mặt bánh lát lớp đường đỏ tươi, ý nghĩa là kiết lợi “mãn đường hồng”. Ngoài ra bên cạnh “thần chủ” còn cúng một chén cơm tết, cơm này phải là cơm mới nấu tối giao thừa, trên mặt trang trí nhãn, trái vải, táo hồng, mức hồng; trên mức hồng cắm “tụ bảo thụ” và “thông bách chi”.
Đồ cúng Phật trong nhà gồm một đĩa gongmi, một đĩa bánh, hoa. Năm mới cúng thần và thần chủ, cúng bánh, gongmi, trái cây, mãn đường hồng xếp thành đĩa, cắm hoa, gọi là “dâng hoa”. Hoa cúng phân thành ba cấp thượng trung hạ, thượng có thêm “bát tiên khánh thọ”, “tân xuân bác cổ”, dùng lụa và bấc (đèn dầu) bố trí đủ màu sắc, rất tinh tế; trung thì vẽ đủ màu sắc; hạ thì dán chữ phúc vàng, treo thêm quả cầu nhung nhỏ đỏ.
Đêm giao thừa hoạt động cúng tế trong vương phủ Bắc Kinh long trọng khác thường. Khi nghi thức gia tế bắt đầu, trước tiên là đến điện thờ Phật các nơi thắp hương làm lễ, sau khi vái lạy thần phật mới về cúng tổ tiên, điều này gọi là “thần tiên quỷ hậu”. Trong nhà khi tế thì nam đứng trước nữ đứng sau, trẻ em dưới mười tuổi không được vào gia miếu.
Ở các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Hà Nam v.v. tối giao thừa đều phải rước ông bà, để thể hiện không quên công đức tổ tông, lòng còn mang ân sâu nghĩa nặng của tiên bối. Những gia đình quan lại cả nhà già trẻ đều tắm gội sạch sẽ, quan phục chỉnh tề, vào từ đường tiến hành nghi thức long trọng, rước liệt tổ liệt tông, tam đại tôn thân, về nhận hưởng cúng tế tết. Đối với thường dân, có nhà thì lập gian thờ tổ tiên, có nhà thì lập bài vị tổ tiên, bày đồ cúng thắp hương vái lạy.
Đồ cúng ở Sơn Tây có một loại bánh gọi là “Cao đóa” (gaoduo 高垛儿), dùng bột trắng làm thành, cao có thể đến hơn một thước, ngang hơn nửa thước, tổng cộng có năm tầng, mỗi tầng đều có vân như ý hoặc vân mây gồm nhiều trái táo hồng lớn ở giữa. Ở Hà Nam có một loại bánh tương tự như “cao đóa” gọi là “táo hoa” (zaohua 枣花), có âm gần với âm “tảo phát” (zaofa 早发). Lúc tối giao thừa đón thần, trước tiên phải lập một bàn án ở giữa nhà, thỉnh bài vị, trên có viết “chính nguyệt sơ nhất thiên địa chi giới thập vạn phương linh chân tể chi thần vị”; “Cao đóa” hoặc “táo hoa” đều đặt lên bàn, hai hàng bên để đồ cúng chiên xào: vừng, bánh cuộn thừng, nước hoàng bách, mỗi thứ một đĩa; ngoài ra còn đặt một số trái cây như đào, hồng, lê, v.v.. Lại lấy một nhánh tùng bách bó ở phía phải chân sau của bàn cúng. Ở Hà Bắc bên cạnh bài vị còn cắm thêm đốt cây vừng thể hiện “tiết tiết cao” (mỗi năm một cao hơn). Xếp nhang thành vòng bó ở phía trái chân bàn hình chữ vạn được làm thành từ vòng nhang to hoặc đề bốn chữ “vạn thọ vô cương” theo kiểu chữ triện, thắp hương lên, trong năm ngày hương khói lượn lờ nghi ngút, ngày đêm không tắt, để thể hiện lòng thành kính đối với thần.
Vùng đất Ngô Việt duyên hải phía đông đại lễ cúng tế cuối năm gọi là “chúc phúc”. Trong “Việt ngạn” của Phạm Diễn ghi: “chúc phúc, lễ tạ ơn cuối năm, tạ ơn thần linh tổ tiên, gọi như vậy”. “Chúc phúc” tiến hành vào cuối năm, bất kể là giàu hay nghèo đều rất quan trọng điều này. Những gia đình bình thường từ mười lăm tháng giêng bắt đầu quét dọn nhà cửa, lau chùi tủ bàn; nhà giàu có thì thuê người giã gạo làm bánh, giết gà giết dê, trang trí tết, ngày đêm bận rộn chuẩn bị “phúc lễ” (đồ cúng của “chúc phúc”). “Chúc phúc” nói chung là được tiến hành từ hai mươi tháng chạp đến giao thừa. Thiệu Hưng có phong tục “từ hai mươi tháng chạp đến giao thừa mỗi ngày đều không gọi là ngày mà gọi là đêm, như ngày hai mươi tháng chạp gọi là “đêm hai mươi”. Có người cho rằng như vậy là để nhắc nhở mọi người đến cuối năm rồi, mọi việc phải nhanh chóng bắt tay làm ngay thôi. Cũng có người cho rằng quỷ thần xuất hiện không nhiều vào ban đêm, không gọi ngày mà gọi đêm là để tiện cho thần linh tổ tiên về hưởng cúng tế.
“Chúc phúc” nói chung là phải tạ ơn thiên địa chư thần cùng với vong linh tổ tiên trên trời. Nghi thức “chúc phúc” rất long trọng. Tác gia nổi tiếng hiện đại Chu Tác Nhân trong Cố gia của Lỗ Tấn miêu tả quang cảnh “Chúc phúc”: sau khi chọn xong ngày chúc phúc, sáng sớm tinh mơ ngày đó thức dậy nấu đồ cúng phúc. Trước khi trời sáng mang ra hai bàn bát tiên, xem đồ cúng nhiều ít, nhiều thì phải dùng bốn bàn, xem vân gỗ bàn ngang dọc như thế nào để sắp xếp. Vân gỗ tế thần và cúng tổ là đối nhau, gọi là “hoành thần trực tổ” (thần thì xếp bàn vân gỗ ngang, tổ tiên thì xếp bàn vân gỗ dọc). Sau đó dọn lên năm con vật tế, cũng có khi chỉ ba con, như gà, ngỗng, thịt nguyên bảo, đầu heo và cá, mỗi con đều có phết màu đỏ, trên bàn dọn nhiều đũa, bên cạnh còn chuẩn bị một cây dao, và một chén huyết đã hấp chín, dọn cúng như vậy thể hiện toàn gà toàn ngỗng toàn cá phúc lễ thịnh soạn. Ngoài ra đồ cúng còn có một đĩa đậu phụ và một đĩa muối, vài miếng bánh tết, một đòn bánh tét, ngoài ra còn thêm ba chén trà sáu chén rượu. Đồ cúng cũng được bố trí một cách cầu kỳ, như gà ngỗng phải để tư thế quỳ, đầu hướng về phúc thần để thể hiện nghênh đón, con cá tươi phải dùng sợi dây đỏ buộc xuyên qua lưng của nó treo lên ngạch cửa rồng, dùng giấy đỏ bịt hai con mắt nó lại, để được điều may mắn “lý ngư vượt long môn”.
“Chúc phúc” là hoạt động tế thần cúng tổ tương đối quen thuộc của nhân dân đại lục Trung quốc, tiểu thuyết nổi tiếng của Lỗ Tấn “Chúc phúc” là xoay quanh vấn đề “chúc phúc” ở thôn quê, nói về vận mệnh bi thảm của cô Tường Lâm, một phụ nữ nghèo khổ nông thôn dưới gông xiềng của chế độ phong kiến, tộc quyền, thần quyền, phụ quyền. Tiểu thuyết này được chọn vào giáo trình ngữ văn cho học sinh trung học, cho nên “chúc phúc” cũng được nhà nhà đều biết.
Hoạt động tế thần cúng tổ đêm giao thừa rất đa dạng. Các nơi ở Triết Giang ngoài hoạt động “chúc phúc” ra còn có tục dán “hương hỏa” để biểu lộ tình cảm nhớ thương tôn kính đối với các đời tổ tiên. “Hương hỏa” còn gọi là “vạn niên hương hỏa”, dùng nguyên cả tờ giấy đỏ để viết, trên giấy viết bốn chữ lớn “vạn niên hương hỏa” hoặc “quang tiền dụ hậu”, chính giữa viết đại loại như “… thị đường thượng lịch đại viễn cận chiêu mục tông thân chi vị” (các vị tổ tiên thân tộc tôn kính các đời gần xa từ đường họ …), phải trái hai bên viết câu đối: “Hương lư bất đoạn thiên niên hỏa, ngọc trản trường minh vạn tải đăng”. “Hương hỏa” thường là dán ở giữa nhà hoặc là ở trên tường chỗ nào mà chủ nhà cho là thiêng liêng nhất.
Đêm giao thừa ở Hà Nam nhà nhà đều phải thờ cúng trang nghiêm thần Tài, có thể là tượng thần Tài, có thể là bài vị thần Tài. Người ta dùng sợi dây đỏ xâu tiền lại để trước mặt thần tài, nghe nói làm như vậy mới có thể làm cho thần Tài xâu tiền dẫn đường, lấy tiền của nhà giàu có đem về. Tiền để càng nhiều thì sau này hưởng phước càng lớn.
Bắc Kinh ngày xưa cũng có tục “tiếp thần”. Trong các vị thần, vị được đón tiếp nồng nhiệt nhất là thần Tài. “Tiễn ông thần Tài” là việc làm ăn buôn bán của con cái nhà nghèo khổ trong những ngày tết, họ mua cả bộ hình ông thần Tài được làm thô sơ với giá thấp, đi dọc theo đường rao bán: “tiễn ông thần Tài đây!” làm như vậy được vài đồng tiền. Khi chúng mang đến nhà, chủ nhà không thể nói “không cần”, phải nói “làm phiền con, mau đưa vào đây”, tiền mua là hai bảng đồng. Mỗi khi chúng đưa ắt phải lấy, một đêm giao thừa có thể bán được trên dưới mười tấm hình ông thần Tài. Mồng hai tháng giêng còn phải “tế thần Tài”, lấy hình ông thần tài rước về đêm giao thừa gom lại cúng một lần, rồi thiêu đốt. Đồ cúng thường dùng cá chép và miếng thịt dê vuông, lấy chữ “ngư” (鱼 cá) và chữ “dương” (羊 dê) hợp thành chữ “tiên” (鲜 tươi sáng), ý nói thần Tài mới đến sẽ lại phát tài. Cơm trưa tất phải có món vằn thắn lấy thịt heo, rau hẹ tươi, rau chân vịt làm nhân, tên của nó rất đẹp, gọi là canh “nguyên bảo”.
Trước đây mỗi khi đến giao thừa ngư dân ở ven biển Chiết Giang đều phải đến bãi biển cử hành nghi lễ cúng tế thần biển, tục gọi là “tạ niên”. “Tạ niên” phải dùng năm con vật tế như đầu heo, dê non … và thức ăn rất thịnh soạn, thể hiện tấm lòng của ngư dân đối với thần biển. Nghi thức cúng tế cực kỳ long trọng, đốt pháo không dứt, khói hương nghi ngút. Sau khi cúng tế thần biển xong, lại phải đem đồ cúng đến miếu Tam quan, miếu Thiên hậu tiếp tục cúng tế, nghi thức cũng giống với nghi thức cúng thần biển.
Ở những nơi sản xuất trà, đêm giao thừa có tập tục mời Bồ tát, thôn trà lấy trà ngon hái trong năm đó làm đồ cúng, cầu thần linh phù hộ năm tới mưa thuận gió hòa, trà được mùa. Sáng sớm mồng một đầu năm, người nam trong các gia đình thức sớm pha một ly trà mới, và cầm hai cái “kim đoàn” (giấy quần kim nguyên bảo) để trước bàn thờ ông Táo cúng tế trời đất thần linh.
Đêm giờ ngọ giao thừa đón ông Táo trở về, dán bài vị ông Táo mới mua lên bàn thờ, đây là tập tục các nơi đều có, nhưng nghi thức cụ thể thì mỗi nơi mỗi khác. Một số nơi ở Chiếc Giang vào giờ ngọ đón ông Táo trở về, lại còn tế Tỉnh tuyền đồng tử thần mã, lấy một đĩa ba quả, một đĩa ba rau, một cây nến nhỏ, một nén hương, tất cả đặt vào một cái mâm lớn để trên mặt đất cúng. Ngoài ra còn có một ly nước sạch, đốt một bức “tiểu nguyên bảo”, lấy một miếng giấy đỏ dài dán ngang dọc lên trên thành giếng, gọi là “phong tỉnh”. Ngoài ra còn phải “phong môn”, tức là dùng hai cây mía ngọt da hồng, dài bằng nhau, mỗi cây đều quấn giấy xanh đỏ, cấm thêm nhánh bách, tế môn thần mã, sau đó đóng cửa cài then, để cho cây mía tựa vào cửa. Không được mở cửa cho đến trời sáng.
Hoạt động cúng tế đêm giao thừa muôn màu muôn vẻ, nó phản ánh sự sùng bái của con người đối với trời đất quỷ thần và tâm lý mong cầu phước lành. Cùng với sự phổ cập của quan niệm khoa học hiện đại, sự nâng cao tri thức văn hóa, ngày nay, người Trung Quốc ăn tết hoạt động cúng thần tế tổ tiên ngày càng ít đi, có thần đã nằm ngoài vòng tín ngưỡng của đại đa số nhân dân, như thần Táo đã từng làm “nhất gia chi chủ”, trước đây được xem là “hỷ thần” có ảnh hưởng đến vận mệnh con người. Có một số gia đình thậm chí cúng tổ tiên cũng không còn.
5. Ăn cơm đoàn viên
Sau khi tế thần cúng tổ tiên, đêm giao thừa cả nhà lớn nhỏ quây quần bên nhau bắt đầu ăn một bữa cơm đoàn viên thịnh soạn và đầy ý nghĩa. Cơm đoàn viên còn gọi là “rượu giao thừa”, “cơm tết”, “hợp gia hoan” v.v.. Cả nhà tề tụ đủ vào bàn ăn, một nhà đông đúc là biểu hiện một gia đình hạnh phúc, vạn ý kiết tường. Trong Hàng tục di phong của Phạm Tổ Thuật có ghi: mùa đông, nhà nhà đều phải cúng tế thần, tục gọi là “thiêu niên chỉ”. … Sau khi tiễn thần, cả nhà đoàn tụ ăn cơm, gọi là “tản phúc”. “Tản phúc” tức là chỉ buổi cơm đoàn viên vào đêm cuối cùng của năm, có ý nghĩa hưởng phúc của thần linh ban cho.
Cơm đoàn viên yêu cầu mọi thành viên trong gia đình đều phải tham gia, người thân đi xa nhà hoặc đi làm việc ở nơi xa cũng phải nhanh chóng về nhà kịp lúc ăn tết, ăn bữa cơm đoàn viên này. Nếu như người thân không thể về nhà hoặc trong nhà có người bị bệnh mà không thể ngồi vào bàn dùng cơm chung được, thì phải để một chỗ trong bàn cho họ, trên bàn cũng phải dọn chén đũa, giống như là cả nhà đều đoàn viên không thiếu ai. Trong năm đó mà có trưởng bối, người già qua đời, trên bàn cũng phải dọn chén đũa cho người ấy, cũng phải để chỗ ngồi, để thể hiện sự tưởng nhớ đến người thân. Có câu thơ: “nhất niên tương tận dạ, vạn lý vị quy nhân”. Người ta vào đêm giao thừa càng nhớ đến người thân hơn!
Thứ tự vị trí chỗ ngồi trong bữa cơm đoàn viên có tôn ty trật tự, người lớn nhất trong nhà ngồi ở chỗ quan trọng nhất, kế đó là theo thứ tự phải, trái, thấp hơn mà sắp xếp theo tuổi tác lớn nhỏ, vai lứa thế hệ cao thấp theo thứ tự mà ngồi, không thể ngồi loạn vượt qua vị trí của mình. Đương nhiên điều này đều là quy củ cổ xưa, ngày nay đã không phân rõ ràng theo tôn y như vậy nữa, giới hạn nghiêm ngặt quá!
Lúc ăn cơm đoàn viên phải nói những lời nói tốt lành, kỵ nói những gì xui xẻo không may, ví dụ như lúc nói phải nói nhiều những từ “nhiều, dư, có, tốt, phát, v.v.”, không được nói những từ không may như “chết, không, không đủ, ăn không no, vỡ, v.v.” Không may có người chết trong những ngày tết cũng không được dùng chữ “tử”, chỉ được nói người đó “già” rồi. Không cẩn thận làm bể chén đĩa, cũng không được nói “vỡ rồi”, “bể rồi”, mà phải nói “tuế tuế bình an” (“tuế” - sui 岁 [tuổi] và “toái” - sui 碎 [vỡ] là đồng âm). Trẻ con ngã cũng phải nói lời tốt lành, như khi đỡ trẻ đứng dậy thì nói: “té té ngã ngã, không họa không bệnh”.
Lớp trẻ phải chủ động gấp thức ăn cho người lớn thể hiện sự hiếu kính. Người lớn cũng gấp thức ăn cho con cháu thể hiện sự thương yêu. Cha mẹ gấp một miếng thịt to cho con và nói những lời như “ăn không hết thì để đến sang năm mà ăn”, một mặt là vì phải nói những lời tốt lành, mặt khác là để đề phòng con làm rối, nói những câu “ăn không no”, “không đủ ăn”… Song, con nít không hiểu nhiều quy tắc như vậy, nói những lời không tốt trong những ngày tết, lúc đó người lớn phải nhanh chóng ngăn lại, và vội vàng nói “đồng ngôn vô kỵ” (lời con nít nói không có kỵ) để diệt những ảnh hưởng xấu. Có nhà dứt khoác dán bốn chữ lớn “đồng ngôn vô kỵ” ở trên tường, để tránh con nít nói lời xui xẻo lúc người lớn không để ý, mang lại những điều không tốt lành cho cả nhà trong năm mới.
Cơm đoàn viên thường có mười đĩa thức ăn, gọi là “thập đại uyển”, để nhận được “thập toàn đại phước”. Trong mười đĩa thức ăn này phải có một đĩa thịt viên, là mong muốn được đoàn viên. Có một đĩa cá, ý nghĩa là năm năm đều có dư. Bửa cơm đoàn viên của một số nơi ở Hà Nam có bảy đĩa thức ăn, nói chung là không để tám đĩa hoặc chín đĩa, bởi vì bảy đĩa thức ăn, một đĩa ở giữa, sáu đĩa xung quanh làm thành vòng tròn biểu đạt ý nghĩa đoàn viên, tám đĩa hoặc chín đĩa đều không xếp thành hình tròn được, cho nên có cách nói “thất viên bát bất viên”.
Bữa cơm tối giao thừa từ cách chế biến cho đến cách ăn đều có không ít nguyên tắc, đều có ý nghĩa đặc biệt. Ví dụ như một đĩa thịt đông khô (鲞冻肉 xiangdongrou), trên mặt có đầu cá khô, có ý là “có hy vọng” (有想头 youxiangtou). Những nhà có học thức ngày xưa bữa cơm tết còn phải có bánh tết (年糕 niangao) bánh tét (粽子 zongzi) mỗi thứ một đĩa, ngụ ý là “cao trung” (高中 gaozhong) thể hiện sự mong cầu thi đỗ đầu bảng khi đi thi. Những nhà thường dân không có học thức cũng dọn lên hai món ăn như vậy, nhưng có ý là “năm năm cao”, “con cháu đầy đàn”. Người phương nam bữa cơm tết còn thích ăn khoai lang (芋头 yutou), vì món này có chữ gần âm với chữ “dư” (余 yu), lại gần âm với chữ “dụ” (裕 yu - phong phú, đầy đủ), có ý nghĩa là cả gia đình tài phú có dư, ngày càng giàu có. Một số nơi bữa cơm tết không thể thiếu cá tươi, toàn cá dọn lên bàn, nói chung là không phải để ăn, chỉ là để thể hiện ý nghĩa thanh khiết có dư có để.
Cơm tết ở Tô Châu phải có quả cà (茄子), bởi vì nó và “lạc tô” cùng tên, mà “lạc” gần âm với “lạc” (乐 le - vui), có ý nghĩa là một năm an vui, trong “Ngô Du” của Thái Vân có bài thơ:
Thê noa nhất thất thoại đoàn viên,
Ngư nhục qua cà tạp quả bàn;
Hạ trợ tần giáo thính sấm ngữ,
Gia gia gia lý họp gia hoan.
Dịch nghĩa: Vợ con một nhà vui đoàn viên,
Cá thịt dưa cà cùng mâm quả;
Vừa ăn vừa nghe lời giáo huấn,
Nhà nhà đều vui vầy đoàn tụ.
Bài thơ này cũng nhắc đến cà, và miêu tả cảnh mọi người vui vẻ đoàn tụ ăn bữa cơm đoàn viên.
Bữa cơm tết ở những nơi rộng lớn như Tô Bắc, Hoản Bắc, Dự Nam có chỗ giống nhau, đó là bất kể nhân khẩu trong nhà nhiều hay ít đều phải nấu một nồi lớn đầy cơm, đêm giao thừa ăn không hết, còn thừa lại càng nhiều càng tốt, toàn bộ cơm thừa đựng vào cái thau hoặc thùng gỗ, sau đó lấy cơm cháy thành miếng hoàn chỉnh không khuyết úp lên cơm. Nếu cơm cháy màu vàng úp lên cái thau hoặc cái thùng gỗ thì giống một “đại nguyên bảo”. Mồng hai tết bắt đầu ăn cơm thừa của đêm giao thừa, ăn đến hết cơm mới ăn cơm cháy.
Vùng Chiếc Giang Phố Giang không chỉ có người ăn cơm tết mà xúc vật cũng phải ăn, đặc biệt là chó, nhất định phải ăn cơm đoàn viên, cho nó ăn uống no say rồi ngủ, tránh sủa in ỏi làm thần tiên không đến nhà ban phước.
Cơm đoàn viên đêm giao thừa kết thúc một năm cũ, mở ra một năm mới sắp đến, nó nối liền hai năm, người ta luôn chú ý trong từng lời nói từng cử chỉ, từng món ăn đều ngụ ý chúc nguyện những điều tốt lành cho năm mới sắp đến, hy vọng mang đến cho một năm mới kiết tường, diệt trừ tai họa, cho nên ngày xưa nguyên tắc ăn cơm đoàn viên trong dân gian thật là phức tạp. Ngày nay những nguyên tắc này có cái đã bỏ rồi, nhưng khi ăn bữa cơm tết có ngụ ý dư giã này, người ta vẫn gửi gắm rất nhiều tâm tư, thể hiện rất nhiều nguyện vọng, cho nên không ít nguyên tắc vẫn còn bảo lưu. Người trẻ thì không quá chú ý, nói năng không cẩn thận phạm những nguyên tắc cấm kỵ ngày xưa, người lớn liền chỉ bảo và mắng cho một trận. Song, những gia đình nhỏ của những đôi vợ chồng trẻ ăn cơm đoàn viên không có nhiều điều cấm kỵ như vậy, họ chỉ ăn tết theo cách mà họ thích, không muốn bị trói buộc vào những điều lệ cũ. Tự do tự tại, không trói không buộc, nhưng trên thực tế không ít những điều họ làm họp với tập tục truyền thống, chỉ là họ không phát hiện ra thôi.
6. Đón giao thừa:
Ăn xong cơm đoàn viên, mọi người không ai muốn ngủ cả, thắp hương thắp nến, cả nhà quây quần ngồi hướng về lửa, vừa ăn hoa quả vừa nói chuyện phiếm, chuyện xưa. Người lớn thì ôn lại một năm qua, bàn về một năm mới; bọn trẻ thì đùa vui đủ trò, nghe ông bà kể chuyện; có người ngồi đến rất khuya, có người suốt đêm không ngủ, đây gọi là “thủ tuế” (đón giao thừa), có nơi gọi là “ngao niên”. Huyện Xác Sơn Hà Bắc còn gọi là “ngao đại miên áo”, người lớn nói với trẻ con rằng chỉ cần thức suốt đêm, khi đến trời sáng thì được một cái áo bông trong mới ngoài mới bông mới.
Đời Tấn thời cổ đại Trung Quốc đón giao thừa đã thành tục, phát triển mạnh thành trào lưu. Lúc đó, ăn tết cũng quan trọng việc cả nhà đoàn viên đón giao thừa, thậm chí đến phạm nhân trong ngục cũng được thả về nhà đoàn tụ cùng gia đình. Trong “Tào Thu truyện – Tấn thư” có ghi: Tào Thu khi làm huyện lệnh Lâm Tri, đêm giao thừa đến ngục quan sát, bổng nhiên khởi lòng thương xót, ra lệnh mở cửa ngục thả cho bọn họ về nhà đoàn tụ với người thân, sau tết đến thời hạn quy định trở lại tù. Những phạm nhân này vô cùng cảm kích Tào Thu, về nhà ăn tết xong thì tự động quay trở lại ngục.
Tục đón giao thừa thời Tùy Đường đặc biệt thịnh hành. Vua ở trong cung đón giao thừa, yến tiệc linh đình, cực kỳ xa hoa. Tương truyền Tùy Dạng đế mỗi khi đến đón giao thừa dùng gỗ trầm hương, gỗ đàn hương xếp thành cái lồng rồi đốt, một đêm có thể đốt hơn hai trăm xe gỗ quý hiếm như vậy. Đống lửa được đốt lên, ngọn lửa cao hơn mười trượng, hương thơm tỏa ra các lầu hơn mười dặm. Đón giao thừa trong cung đời Đường cũng như vậy, vào đêm giao thừa Thái thường dẫn đoàn hát Lê viên hơn ngàn người vào cung, biểu diễn múa trước tẩm cung, đồng thời “thắp nến, đốt trầm hương đàn hương sáng như ban ngày”, hoàng đế, hoàng hậu, cùng công chúa, vương phi đều đến xem. Lúc đón giao thừa còn yến tiệc linh đình, thị thần ứng đối thơ phú, vua tôi cùng nhau xướng họa, thật là cảnh hoan lạc thái bình. Đường Thái Tông đã từng làm thơ “đón giao thừa”, miêu tả cảnh đón giao thừa cung đình:
Mộ cảnh tà phương điện, niên hoa lệ khởi cung,
Hàn từ khứ đông tuyết, noãn đới nhập xuân phong,
Giai phức thư mai tú, bàn hoa quyển lạp hồng,
Cung hoan tân cố tuế, nghinh tống nhất tiêu trung.
Đón giao thừa trong dân gian đương nhiên không thể xa hoa sánh như cung đình, nhưng cảnh đón giao thừa càng đa dạng hơn. Nhà thơ đón giao thừa thì vịnh bài thơ mới, như Đỗ Phủ có bài thơ “Đỗ vị trạch thủ tuế”, Trương Thuyết có bài “Khưu Châu thủ tuế thi” v.v.. Bạch Cư Dị đã từng ăn tết đón giao thừa trên đường du ngoạn, bài “Khách trung thủ tuế thi” của ông có đoạn:
“Thủ tuế tôn vô tửu,
Tư hương lệ mãn cân,
Thủy tri vi khách khổ,
Bất cập tại gia bần”
Dịch nghĩa: Đón giao thừa không rượu,
Nhớ quê lệ thấm khăn,
Đã biết là khách khổ,
Chi bằng nghèo ở nhà.
Ngoài ra còn có bài “trừ dạ ký đệ mụi” (đêm giao thừa gửi các em):
“Vạn lý kinh niên biệt, Cô đăng thử dạ tình.
Bệnh dung phi nhất nhật, quy tư bức tân chính.
Tảo vãn trùng hoan hội, ki li các trường thành.”
Những người đón giao thừa đang phiêu bạc nơi đất khách quê người mang tâm trạng ưu buồn nhớ người thân nơi quê nhà, những tướng sĩ ngoài biên ải, những kẻ tù tội bị lưu đài nơi xa xôi, những sử quan bị gián chức chuyển đi xa nhà, những thương nhân buôn bán ở tứ xứ, những lãng tử buồn chán chu du trọ nơi lữ quán, nghĩ đến cái đêm nhà nhà đoàn viên cùng vui hưởng ngày tết, tự nghĩ lại mình một thân phiêu bạc, người nào mà không thương tâm, buồn tủi. Nhà thơ ngoài cửa ải Cao Thích có viết bài thơ:
Lữ quán hàn đăng độc bất miên,
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên?
Cố hương kim dạ tư thiên lý,
Sương mấn minh triêu hựu nhất niên.
Nhà thơ ở biên ải xa xôi, trong giờ khắc này, mọi người trong thiên hạ đều vui đoàn viên đón giao thừa năm mới, còn nhà thơ thì lại đối diện với ngọn đèn đêm đông, cô đơn không ngủ được. Điều gì khiến cho nhà thơ phải đau buồn bi thảm? Thứ nhất, những người thân ở cố hương giờ phút này nhất định là nhớ đến nhà thơ gấp bội phần, làm sao không khiến cho nhà thơ ở nơi biên ải trỗi dậy tình cảm nhớ thương da diết cố hương! Thứ hai, qua đêm giao thừa này, tuổi xuân của một năm mãi mãi qua đi, thời gian không đợi một ai, thời gian dần trôi, ngày mai là bắt đầu một năm mới nữa. Vàng bạc dễ được, tuổi xuân khó lưu, nhà thơ tóc mai đã điểm sương, tuổi đã về chiều, còn có thể được bao nhiêu năm tháng nữa, đêm giao thừa nơi đất khách quê người, lòng tràn đầy nỗi niềm tâm sự!
Những người có lý tưởng lớn đêm đón giao thừa lại có một tâm tình khác. Bùi Độ đời Đường có chí lớn, mỗi khi đến đón giao thừa cuối năm, luôn cảm thấy năm tháng trôi qua một cách vô ích, tuổi già sắp đến, cái cảm giác “ngày tháng ném người đi, có chí không làm được gì” cứ mang trong đầu, tự nhiên cảm thấy buồn, ngồi trước lò, thêm lửa tiêu sầu. Trong “Vân tiên tạp ký” có ghi: Bùi Độ “đêm giao thừa than thở, mãi đến sáng không ngủ được”. Thời Đường Hiến Tông, Bùi Độ được làm tướng, cuối cùng có cơ hội thực hiện hoài bão lớn. Ông dẹp ngoại phiên, bình cát cứ, lập công với vương triều Đường. Năm hai mươi nguyên hòa (năm 817 công nguyên), ông thúc quân công phá Thái Châu, bắt Ngô Nguyên Tế, ổn định chính cục của vương triều Đường. Những người như Bùi Độ còn rất nhiều trong lịch sử.
Đêm đón giao thừa không thể thiếu lửa, trong nhà có lò lửa, bên ngoài có đống lửa, lửa càng to càng tốt, càng báo hiệu mùa màng tốt tươi, cửa nhà thịnh vượng, cho nên gọi là “vượng hỏa”. Bài “Khưu Châu thủ tuế thi” của Trương Thuyết đời Đường có câu: “Trừ dạn thanh tôn mãn, hàn đình liêu hỏa đa”. “Hàn đình liêu hỏa” ở đây tức là chỉ “vượng hỏa” đốt bên ngoài nhà. Trong “Đông kinh mộng hoa lục” của Mạnh Nguyên Lão đời Tống có ghi: giao thừa “trong cung cấm pháo nổ to, âm thanh vang dội ra ngoài, nhà lê dân quây quần bên lửa, đến sáng không ngủ, gọi là ‘đón giao thừa’”. Lò lửa ở đây là chỉ ngọn lửa thịnh vượng ấm áp trong nhà mà mọi người vây quanh. Trên đây chúng tôi đã đề cập đến các loại gỗ quý hiếm như trầm hương, đàn hương mà cung đình các vương triều Tùy Đường lúc đón giao thừa đều đốt, đây có thể gọi là ngọn lửa thịnh vượng trong cung chăng!
Đêm giao thừa đốt lửa thịnh vượng là phong tục phổ biến khắp nơi từ giang nam đến ải bắc, một số nơi ở phía bắc gọi là “liêu tuế”, “cự tuế”, Hàng Châu ở phương nam gọi là “tùng bồn”. Trong “Tứ thời thưởng u lục” của Cao Liêm nói về phong tục này ở Hàng Châu hết lời khen ngợi, gọi là “đại kỳ quan”:
Giao thừa, cư dân Hàng thành nhà nhà đốt củi, lửa sáng như ban ngày, khua chiêng đánh trống, đốt pháo, gọi là “tùng bồn”. Lúc này, người có hứng thú u nhã leo lên núi cao nhìn về tứ phía, ánh hồng khắp nơi, đường lớn hẻm nhỏ lấy ánh sáng làm ngăn cách, tiếng nổ đinh tai, náo nhiệt xa gần, quang cảnh thật là đại kỳ quan.
Đương nhiên phong tục này ở phương Nam không phải chỉ có ở Hàng Châu, mà là khắp nơi giang nam đều có. Trong một số sách xưa như “Kinh sở tuế thời ký” cũng có ghi lại, phương Nam từ xa xưa đã có phong tục đốt cây đuổi trừ ác quỷ, sau này phong tục này càng phổ biến.
Mức độ thịnh hành của phong tục đốt lửa thịnh vượng ở phương Bắc không bằng phương Nam, nhưng cũng rất đa dạng. “Đại đồng huyện chí” Sơn Đông có ghi: “Nguyên đán, nhà nhà đốn củi chặt than, xếp lên cao, hình dạng giống như cái tháp, đốt lên kịp lúc, gọi là ‘lửa thịnh vượng’”. Thật ra “Nguyên đán” trong đoạn trên tức là giao thừa. Đoạn này miêu tả lửa thịnh vượng huyện Đại Đồng là lấy than hoặc củi đốt, hình dạng giống như cái tháp nhỏ, có thể tưởng tượng khi đốt lửa lên ngọn lửa phất cao rất thịnh vượng. Ở những nơi có than, khi đến giao thừa đều chất những cục than to thành đống, cao đến hai ba thước, sau khi đốt lửa có thể cháy đến suốt cả đêm. Có những nhà quan quyền phú quý, để cho thấy gia đình mình tài khí, vận mệnh càng hưng thịnh hơn, chất lên năm thước, đống củi thịnh vượng cao hơn trượng, cháy đến mấy ngày mấy đêm cũng chưa tắt. Những nơi không có than thì đốt lửa thịnh vượng bằng củi, hoặc dùng những cành cây khô trong nhà, có khi còn vẽ bức lửa thịnh vượng, trên đề “vượng khí xung thiên” dán lên củi. Giờ tý giao thừa đến, chư thần hạ giới, nhà nhà đốt lửa thịnh vượng lên, bọn trẻ bên đống lửa chơi đốt pháo, vui đùa nhảy nhót, vô cùng náo nhiệt.
Đêm đón giao thừa còn phải uống rượu đồ tô. Rượu đồ tô là một loại rượu thuốc được ngâm từ các loại thảo dược, uống rượu đồ tô là một trong những nội dung chủ yếu của hoạt động đón giao thừa thời cổ đại.
Đồ tô là một loại lá cỏ, người xưa dùng nó trang trí nhà cửa gọi là “nhà đồ tô”. Tương truyền thời cổ đại có một vị ẩn sĩ cao nhân ở nhà đồ tô, mỗi khi đến giao thừa người này phân tặng cho dân làng một tờ thuốc, dặn dò mọi người bao thuốc bằng dây bố ngâm vào nước giếng, đến ngày Nguyên đán lấy nước từ trong giếng đổ vào bình rượu, mọi người trong nhà cùng uống, nó có thể xua đuổi dịch bệnh. Người đời sau làm theo như vậy mà không biết ẩn sĩ đó tên gì, bèn gọi rượu thuốc này là “rượu đồ tô”. Có người nói vị cao nhân này là danh y đời Đường tên là Tôn Tư Mạc.
Tục uống rượu đồ tô hình thành vào đời Đường, lúc đó là uống rượu thuốc vào ngày Nguyên đán. Truyền từ đời này sang đời khác, đến đời Tống thì đã uống rượu đồ tô vào đêm giao thừa rồi. Trong “Sự vật ký nguyên” của Cao Thừa đời Tống nói “đêm đón giao thừa uống rượu đồ tô đã thành lệ rồi”. Cũng có thể tìm thấy hàng loạt chứng cứ trong thơ Tống về tục uống rượu đồ tô vào đêm giao thừa của người đời Tống, bài thơ “trừ nhật” của Tô Thức viết: “Niên niên tối hậu ẩm đồ tô, bất giác lai niên thất thập tuế”. Từ đời xưa uống rượu đồ tô phải có trật tự theo tuổi tác, nhỏ uống trước, lớn uống sau, nguyên nhân là vì người nhỏ tuổi ăn tết qua năm thì được tuổi, có thể vui vẻ chúc mừng, uống rượu đồ tô trước; người già ăn tết qua năm thì mất tuổi, trong lòng thường buồn buồn, uống rượu đồ tô sau. Tô Thức tuổi già nên ông nói “niên niên tối hậu ẩm đồ tô”, đã trở thành câu nói nổi tiếng, đàn bà trẻ con đều biết. Bài “Trừ dạ tuyết” trong tập “Kiếm Nam” của Lục Du có câu: “Bán trản đồ tô do vị cử, đăng tiền tiểu thảo tả đào phù.” Hai câu thơ này miêu tả cảnh nhà thơ trong đêm giao thừa tuyết rơi vừa uống rượu đồ tô vừa đề câu đối trên tấm đào phù.
Ngày nay, một số nơi ở miền nam Trung Quốc vẫn còn tục ăn tết cả nhà cùng uống rượu đồ tô. Về cách làm rượu Đồ tô, trong “Tuân sinh bát tiên” của Cao Liêm đời Minh có ghi như sau:
Cách làm rượu Đồ tô: đại hoàng mười sáu thù, bạch thuật mười lăm thù, thục tiêu mười lăm thù, cát cánh mười lăm thù, khứ mục quế tâm mười lăm thù, khứ bì ô đầu sáu thù, khứ bì tề bạt kháp mười hai thù.
Dùng cách phối hợp như vậy, dùng thêm hổn hợp rượu gạo ngon điều chế mà thành rượu đồ tô. Uống loại thuốc này quả thật là có tác dụng phòng dịch trừ bệnh, có lợi cho sức khỏe.
Yến tiệc đêm giao thừa đời Đường, ngoài uống rượu đồ tô ra còn uống một loại rượu hoa tiêu có thể làm ấm vào mùa đông, tức là trong mâm trên bàn có phấn hoa tiêu, khi uống rượu nhúm một ít để vào trong ly cho hòa tan rồi mới uống. Bài thơ “Đỗ vị trạch thủ tuế” Đỗ Phủ có viết: “Thủ tuế a nhung gia, tiêu bàn dĩ tụng hoa”. Chứng minh rằng thức uống mà Đỗ Phủ dùng đón giao thừa là rượu hoa tiêu, chứ không phải là rượu đồ tô. Cách pha chế thêm vào ít nhiều phấn hoa tiêu hoặc phấn hồ tiêu còn truyền đến phương Tây. Trung thế kỷ – khoảng đời Đường trên 400 năm – những kỵ sĩ Châu Âu cũng thích dùng rượu hoa tiêu, khoảng vào đời Đường thương nhân Trung Tây đã truyền vào vùng đất Trung Đông, sau đó tiếp tục chuyển đến các nước Tây Âu. Đương nhiên điều này còn phải khảo sát thêm bước nữa.
“Chiêm tuế” là một loạt các hoạt động đặc biệt có ý nghĩa ma thuật được tiến hành cùng lúc với đêm đón giao thừa. Đêm giao thừa “nhất dạ liên song tuế, ngũ canh phân nhị niên”, là một mắc xích đặc biệt trong một năm, quan niệm của người Trung Quốc bị phủ lên một bức màn thần bí, thế là lợi dụng thời gian này để bói toán nắng hạn mưa gió, mùa màng thu hoạch, vận mệnh nhân sự trong năm. “Chiêm tuế” có thể thực hiện lúc giao thừa, cũng có thể là rạng sáng Nguyên đán, hoặc thượng tuần tháng giêng, nói chung là lúc năm mới và năm cũ giao nhau.
Bói toán gió mưa nắng hạn trong năm: ở Trung nguyên nhà nông thường vào đêm giao thừa lấy một đốt thân cây cao lương tách ra, lần lượt đào mười hai cái lỗ, mỗi cái đặt vào một hạt đậu lớn, mỗi hạt đậu lớn đại diện cho một tháng, úp thân cây lại lấy chỉ quấn quanh, đổ nước vào chậu, ngày Nguyên đán mở ra xem những hạt đậu của mỗi tháng trong thân cây nở như thế nào. Hạt đậu của tháng nào nở to thì tháng đó mưa nhiều, hạt đậu của tháng nào nở ít thì tháng đó mưa ít. Nông dân dựa vào đây mà phán đoán nên trồng loại hoa màu nào, không nên trồng loại hoa màu nào.
Trong “Tân Thái huyện chí” Hà Nam có ghi, nông dân ngày Nguyên đán thức sớm, lấy bánh bột mì trắng và bánh hỗn hợp đậu xanh đậu con, mỗi thứ một cái vứt một lượt cho chó ăn để đoán biết hoàn cảnh trong năm, nếu như chó ăn bánh bột trắng trước, thì đó là điềm báo mùa hạ bội thu, nếu chó ăn bánh đậu xanh đậu con trước thì báo hiệu mùa thu mùa màng bội thu.
Giang Tô có cách bói tết về mực nước để xem năm hạn hay lục, thời gian bắt đầu từ ngày Nguyên đán đến ngày mười hai thì kết thúc, mỗi ngày lấy bình múc nước, cân nó xem nặng hay nhẹ, để xem các tháng trong năm mực nước cao hay thấp. Ví dụ như ngày mồng năm tháng giêng múc nước nặng tức là tháng năm mưa nhiều, ngày mồng sáu tháng giêng múc nước nhẹ thì tháng sáu mưa ít, sẽ gặp hạn.
Bói về thu hoạch mùa màng một năm, vẫn lấy Giang Tô làm ví dụ, người nông dân ngày mồng một tết thức sớm xem mây gió, để bói việc nông trong năm. Có câu ngạn ngữ: “tết đón gió đông bắc, ngũ cốc được mùa; tết đón gió tây bắc, đại thủy hại việc nông”. Ý nghĩa là ngày Nguyên đán gió đông bắc thổi thì năm đó được mùa; gió tây bắc thổi thì sẽ có lũ lụt hại mùa màng.
Bói về vận mệnh con người trong năm: khắp nơi trong nước đều có tập tục ăn bánh sủi cảo vào đêm giao thừa hoặc ngày Nguyên đán để bói vận mệnh con người trong năm. Khi người ta gói sủi cảo, chuẩn bị trước vài cái sủi cảo, có cái bên trong gói tiền, có cái bên trong gói một viên kẹo, có cái gói một trái ớt, nếu như ai ăn trúng cái sủi cảo gói tiền tức người đó năm mới sẽ phát tài; ai ăn trúng kẹo thì người đó năm mới sẽ gặp người hảo tâm; ai ăn trúng ớt thì người đó sẽ gặp điều xui xẻo, hoặc chuyện phiền phức, hoặc bị kiện tụng v.v.. Các phong tục như vậy chỉ có một số khác biệt nhỏ, về đại thể thì giống nhau ở khắp nơi trong cả nước, và rất phổ biến. Cũng chẳng qua là vì năm mới tăng thêm một vài câu chuyện, một vài điều vui vậy.
Ngoài những cách bói tết như đã kể trên, còn có một số tập tục bói toán kỳ lạ đặc sắc, như “chiếu điền tàm” ở Giang Nam, “kính thính” ở các địa phương, v.v..
“Chiếu điền tàm” là phong tục cũ ở Giang Nam, phần lớn được tiến hành vào ngày mười lăm tháng chạp hoặc giao thừa. Tục này là như thế này, khi đêm đến người ta đốt đuốc ngoài đồng ruộng, giơ cao đuốc lên, chiếu sáng khắp ruộng đồng, để bói hoặc cầu chúc cho sang năm kén tằm mùa màng được mùa, cho nên gọi là “chiếu điền tàm”. Nhà thơ Phạm Thành Đại đời Tống viết bài “Lạp nguyệt thôn điền lạc phủ”: thôn xóm lấy cây chổi cùn như loại cây đai đã tước vỏ, cây tre làm đuốc đốt, cầm phần cán giơ cao chiếu khắp ruộng đồng, để cầu mùa màng.” Ông còn có một bài thơ “Chiếu điền tàm hành” miêu tả phong tục “chiếu điền tàm” ở Giang Nam. Ở phía đông tỉnh Tứ Xuyên có tục “Chiếu tuyệt địa tàm”, xuất hiện hơi muộn, tiến hành vào đêm mười lăm tháng giêng. Người nông dân đốt đèn ở giữa đồng, cắm hương xung quanh bậc ruộng, cho rằng làm như vậy có thể diệt trừ sâu bọ làm hại, cầu mong mùa màng tốt tươi.
“Kính thính” là một trong những tập tục bói tết vào đêm giao thừa phổ biến ngày xưa, phong tục như sau: người ta giấu trong người một tấm kính đến đầu đường cuối thôn lén nghe lời nói của những người qua lại, để bói xem năm đó kiết hung lành dữ như thế nào. Chẳng hạn như lúc đó nghe thấy người khác nói nhiều những từ như “”phát tài”, “cao”, “thành”, ắt năm đó làm việc gì cũng gặp tốt lành, tất có thể mọi việc đều suôn sẻ, tất cả đều trôi chảy, ý muốn là việc thành; nếu như lúc đó nghe thấy người khác nói nhiều những từ như “hết rồi”, “vàng rồi”, “không may rồi” v.v. thì năm đó vận khí sẽ không tốt, ở đâu làm gì cũng phải thận trọng. Phong tục này đã có từ đời Đường, nhà thơ Vương Kiến đời Đường có bài “kính thính từ”, thơ như thế này: “Trùng trùng ma tà giá thời kính, phu tế viễn hành bằng kính thính. Hồi thân bất khiển biệt nhân tri, nhân ý đinh ninh kính thần thánh. Hoài trung thâu thập song cẩm đới, khủng úy nhai đầu kiến kinh quái.” Ngày nay vẫn còn phong tục này, trong “Chiếc Giang Lâm An – Trung Hoa toàn quốc phong tục ký” của Hồ Phác An viết: “giao thừa, … đêm vắng canh khuya, có người cầu ông Táo xin phương hướng, ôm cái kính ra khỏi nhà, lén nghe những lời vô ý của người ngoài chợ, để bói xem sang năm hung kiết thế nào.” Những điều nói ở đây chính là phong tục “kính thính”.
Ở vùng Giang Tô, đêm giao thừa còn có tục lạ kỳ và thú vị là trẻ con “bán ngu si”. “Bán ngu si” là trẻ con vào đêm giao thừa chạy dọc theo đường tìm người hô, nếu có người trả lời liền nói với người đó câu “bán cho cái ngu si”, làm như vậy là coi như bán cho người đó cái ngu si rồi. Trong “Bình giang ký sự” của Thương Đức Cơ đời Nguyên có giới thiệu tỉ mỉ phong tục này: “người Giang Tô, … mỗi khi đến giao thừa, đám trẻ đi trên đường hô: bán cái ngu si, ngàn quan bán cái ngu cho, vạn quan bán cái si cho, muốn mua tặng cho nhiều, muốn nợ gọi tôi đến”.
Đêm giao thừa là cái ải cuối của năm cũ và cái ải đầu của năm mới. Cùng với việc vui chúc mừng năm mới, người ta cũng không thể không đối diện với những vấn đề hiện thực, như thời xưa những người buôn bán, có cửa hiệu phải đi thu nợ để kết toán một năm, những nhà thiếu nợ mà không có tiền bị thúc giục trả nợ, đêm giao thừa này là cái đêm khó thối thác nhất, bởi vì có thể qua được cái đêm giao thừa này là phải đợi và kéo dài cả một năm. Trên thực tế, từ sau ngày đưa ông Táo là các cửa hiệu đều bắt đầu cho người đi thu nợ, một lần không được phải tiếp tục đến đòi. Đến đêm giao thừa là kỳ hạn cuối, thu nợ càng gấp. Đêm giao thừa các cửa hiệu suốt đêm không đóng cửa, những con nợ chạy đôn chạy đáo trả nợ, mãi đến trời sáng. Mặc dù trời đã sáng nhưng những người thiếu nợ vẫn không dám tắt cái đèn lồng cầm trên tay, nếu như đèn tắt thì tự coi như là ngày Nguyên đán rồi, không thể trả nợ được nữa. Những gia đình thiếu nợ bị chủ nợ thúc giục, rất là lo rầu, cho nên có câu: “hai mươi chín tết, nhà nhà có; đến ba mươi, nhà nhà gấp”. Đương nhiên là những người thiếu nợ cũng có cách trốn nợ, như người Hàng Châu có câu ca dao trốn nợ:
“Hai mươi bảy tết thì nôn nóng; hai mươi tám tết, tôi nghĩ cách; hai mươi chín tết, có có có; ba mươi tết không gặp mặt, Nguyên đán gặp nhau quơ quơ tay.”
Ngày xưa người Hàng Châu trốn nợ thường có hai cách: trốn nợ ở chùa Vân Tây, nên chùa này tương truyền là nơi trốn nợ; hai là vào rạp hát xem hát trốn nợ. Ngày nay, thương nhân, xí nghiệp đều kết toán năm theo công lịch, đêm giao thừa không còn là thời hạn cuối cùng của năm nữa, cho nên tục đòi nợ và tục trốn nợ cũng không còn tồn tại nữa.
Ngày nay, đêm giao thừa vẫn theo tục cũ mà làm, người thân bạn bè chúc mừng lẫn nhau, mừng tuổi người già. Các cơ quan Đảng, Nhà nước cũng chúc tết đêm giao thừa. Người ta hầu hết ngồi trước truyền hình xem lễ hội liên hoan mừng xuân của đài truyền hình trung ương, có người chơi đánh bài, có người chơi mạc chược, có người đánh cờ, có người kể chuyện đời xưa v.v.. Bọn trẻ ăn tết có đồ ăn ngon để ăn, có quần áo mới để mặc, có pháo, đồ chơi để chơi, tất cả đều rất hưng phấn; chúng nó cũng thường làm trò vui đùa với nhau, nghe người lớn kể chuyện, ráng tỉnh táo đón giao thừa không đi ngủ. Nhưng chúng nó dù sao cũng còn nhỏ, sức lực có hạn, thường là hội liên hoan mừng xuân kết thúc là chịu không nổi nữa, tự động lên giường ngủ, nằm không bao lâu thì đã vào mộng rồi.
Nguồn: Người dịch
Tài liệu dịch:
Huỳnh Cảnh Xuân 2001: Phong tục lễ tết Trung Quốc. – NXB: Thượng Hải từ thư [黄景春:《中国新年礼俗》,上海辞书出版社,2001年]