Khổng tử cho rằng, chỉ có nghiêm khắc đối với bản thân và khoan dung đối với người khác thì mới có thể tránh xa điều oán hận. Điểm quan trọng làm phân biệt giữa thánh hiền với người bình thường chính là lấy việc trách người thay bằng trách mình, lấy việc khoan dung bản thân thay bằng khoan dung người khác. Tiền đề của việc trách mình chính là không ngừng suy ngẫm về bản thân và tự kiểm điểm bản thân. Nhưng Nho gia cũng không loại bỏ việc phê bình và chỉ trích đối với người khác, thậm chí còn cho rằng, chỉ cần phê bình và chỉ trích với động cơ lương thiện thì có lợi cho người khác, giúp họ sửa được cái sai của mình. Trong đối đãi với người khác thì cần phát hiện ra ưu điểm và sở trường của người từ trong những sai phạm mà họ mắc phải; trong đối đãi với chính mình thì cần phải cố gắng tìm ra những khuyết điểm và thiếu sót từ trong những thành tích mà bản thân đã đạt được. Khi người quân tử chỉ trích người khác thì cần suy nghĩ đến phương pháp xem làm thế nào thì mới có hiệu quả tốt nhất. Để dốc lòng hướng người khác về điều thiện, người quân tử cần phải có đủ tình yêu thương trong khi phê bình và chỉnh sửa cho người. Quân tử khi trách người thì không được quá nghiêm khắc, khiến người khác cảm thấy thương tổn, oán hận, mà đầu tiên là cần phải suy xét đến sức chịu đựng của người. Một khi vượt quá sức chịu đựng thì sẽ khó lòng đạt đến mục đích khuyến thiện, thậm chí là nảy sinh tác dụng ngược trở lại. Tương tự, khi khuyên răn người khác hướng về cái thiện thì cũng cần xem xét đến tố chất của người ấy, không thể yêu cầu quá cao, vượt quá phạm vi năng lực của người. Nho gia còn đề xướng ra kiểu không trách mà lại trách, không dùng lời mà khuyên người hướng đến cái thiện, cái đẹp. Bản thân tuy hội đủ phẩm cách nào đó, nhưng cũng không vì thế mà yêu cầu người khác một cách quá gắt gao; tuy bản thân không có lỗi lầm nhưng cũng không nên phê phán lỗi lầm của người khác một cách quá đáng, đó chính là đức tính tốt đẹp của người quân tử, tuy không dùng đến lời nói mà thể hiện ra điều thiện vậy!
Đạo trung thứ 忠恕là một triết học luân lý của Nho gia, nội dung là xử lý như thế nào cho chính xác khi đối xử và yêu cầu đối với chính bản thân, phải đối đãi và khoan dung với người khác như thế nào. “Trung” chính là yêu cầu chủ thể đối xử với chính bản thân, tức đem những điều mong mỏi, những cái đã xây dựng được và những cái đã đạt thành của mình làm giá đỡ để giúp người khác cũng có thể đạt được như thế. Nho gia yêu cầu mọi người, khi bản thân của mình đã tốt đẹp thì cũng nhìn nhận điều tốt đẹp của người khác; khi bản thân đã có tài năng thì cũng nhìn nhận tài năng của người khác, mà không phải là ngạo mạn nhìn đời. Làm người thì cần phải lấy tâm tư của mình làm điểm xuất phát, mong mỏi cái mong mỏi của người khác, lo cho cái lo của người khác, buồn cho cái buồn của người khác, chủ động quan tâm, yêu thương và giúp đỡ người khác mà không nên chỉ vun vén cho bản thân mình, không nghĩ đến sự tồn tại của người khác. “Thứ” chính là yêu cầu chủ thể đối đãi ra bên ngoài, tức “cái mà mình không muốn thì đừng buộc người khác phải làm” (己不所欲,勿施于人kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân) (Luận ngữ, Nhan Uyên, Vệ Linh Công [论语‧颜渊‧卫灵公]). Từ phương diện hạn chế hành vi xuất phát từ chữ Nhân 仁, chúng ta có thể thấy rằng, phàm là những thứ không phải là bản thân muốn, bản thân xây dựng và bản thân đạt được thì cũng không nên ép buộc người khác. Những thứ mà bản thân không thích lại đem đến cho người thì đó chính là hành vi của kẻ không có chữ Nhân, nó cũng giống như khi ta đem rác của nhà ta vất sang cho nhà người vậy. Theo Khổng tử, nếu làm được “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” thì mới có thể khiến “trong nước không còn oán hận, trong nhà không còn oán hận” (在邦无怨, 在家无怨), tức là nếu đối đãi với người khác bằng thái độ như thế thì bất luận là ở bên trong hay bên ngoài cũng đều không gây ra oán hận và thù ghét. Do vậy, nếu hành sự, làm người theo đạo trung thứ thì không những là có thể giúp bản thân nhìn nhận người khác bằng thái độ khoan dung mà còn có thể giúp mối quan hệ giữa người với người trở nên được hài hoà. Muốn đạt được đạo trung thứ thì cần phải làm rõ các vấn đề như tại sao lại cần trách bản thân, trách bản thân như thế nào, khi nào thì trách người, làm sao xử lý mối quan hệ giữa trách bản thân và trách người khác.
1. Trách kỷ vi tiên 责己为先 (trước tiên là tự trách mình)
Trên ý nghĩa đạo đức học, Nho gia nhấn mạnh đến chữ “Trung” nhưng không có nghĩa là có thể để bản thân mặc tình theo sở thích; nhấn mạnh đến chữ “Thứ” nhưng không có nghĩa là để người khác mặc tình theo sở thích. Trong lịch sử tư tưởng của Nho giáo, từ rất sớm đã có người nêu ra yêu cầu về tự trách bản thân mình. Trong “Thượng thư, Thương thư, Y huấn” (尚书‧商书‧伊训), Y Doãn của Thương Thang nói với Thái Giáp rằng: “Không yêu cầu người khác phải hoàn thiện, chi bằng sớm kiểm điểm bản thân, như thế tất sẽ có được cả vạn nước” (与人不求备,检身若不及,以至于有万邦). Tiên vương Thành Thang giao hảo với người, chưa từng cầu toàn hay trách mắng người, ngược lại là luôn nghiêm khắc với bản thân mình, chỉ sợ rằng mình làm không đủ, làm không tốt, vì vậy mà cuối cùng, ông đã có được cả thiên hạ rộng lớn. Trong “Luận ngữ, Vệ Linh Công” (论语‧卫灵公), Khổng Tử nói: “Cung kính khiêm nhường hết mực, cố gắng ít trách móc người khác, như thế sẽ tránh xa được oán vậy!” (躬自厚而薄责于 人,则远怨矣).
Tiền đề của tự trách mình chính là không ngừng tự suy nghĩ về bản thân và tự kiểm điểm bản thân. Trong “Luận ngữ, Lý nhân” (论语‧里仁) có viết: “Gặp được người hiền bèn nhớ đến Tề Yên, gặp người dữ bèn suy ngẫm lại bản thân mình” (见贤思齐焉,见不贤而内自省也), tức là, khi nhìn thấy ưu điểm của người khác thì cần cố gắng học hỏi; khi nhìn thấy khuyết điểm của người khác thì cần suy ngẫm lại: bản thân mình có mắc phải cái tật ấy hay không? Chỉ có những người năng suy ngẫm về mình thì mới có thể tiến hành phê bình bản thân, sau đó mới có đủ tư cách để phê bình người khác. Trong “Mạnh Tử, Ly lâu hạ” (孟子‧离娄下) có nói: “Quân tử giữ chữ nhân trong tim, giữ chữ lễ trong tim. Người có chữ Nhân tất yêu người khác, người có chữ lễ tất kính người khác. Người biết yêu người khác tất sẽ luôn được người yêu, người biết kính người khác tất sẽ luôn được người khác kính. Nếu đã thuộc loại lớp người như thế mà có kẻ đối đãi ngang ngược với mình, thì người quân tử phải suy ngẫm lại bản thân mình: Ta tất là kẻ bất nhân, tất là người vô lễ, nếu không thì sao ra nỗi thế? Nếu tự ngẫm rằng bản thân mình vẫn có chữ nhân, vẫn có chữ lễ mà vẫn bị đối đãi ngang ngược, thì người quân tử tất phải tự ngẫm rằng: ta tất là kẻ bất trung”. (君子以仁存心,以礼存心。仁者爱人,有礼者敬人。爱人者,人恒爱之;敬人者,人恒敬之。有人于此,其待我以横逆,则君子必自反也:我必不仁也,必无礼也,此物奚宜至哉?其自反而仁矣,自反而有礼矣,其横逆由是也,君子必自反也:我必不忠).
Trong “Tuân tử, Khuyến học” (荀子‧劝学) có nói: “Vì cây có uốn mới thẳng, kim loại có mài mới sắc. Người quân tử học nhiều hiểu rộng và mỗi ngày ba lần tự vấn chính mình thì trí mới sáng, làm mà không sai” (故木受绳则直,金就砺则利。君子博学而日参省乎己,则知明而行无过矣!). Trong “Chính mông, Trung chính” (正蒙‧中正), Trương Tải có nói: “Tuy lỗi là ở người, nhưng vẫn xem như là ở bản thân mình, vì vậy cần phải nhớ lấy” (过虽在人,如在己,不忘自讼).
Trong “Thân ngâm ngữ, Tỉnh sát” (呻吟语‧省察), Lữ Khôn nói: “Kiểm điểm lại lúc vui, kiểm điểm lại lúc giận, kiểm điểm lại lúc lười nhác, kiểm điểm lại lúc khinh nhờn” (喜来时一点检,怒来时一点检,怠惰时一点检,放肆时一点检). Chính là vì, khi con người ta chợt vui mừng, chợt phẫn nộ, tâm trí chợt lười nhác, hành vi chợt khinh nhờn thì lập tức sẽ phạm phải lỗi lầm. Mỗi lần như thế thì phải suy ngẫm lại bản thân mình, kiểm điểm lại bản thân mình, có vậy mới tránh được rất nhiều điều sai trái. Đó chính là một điều khoản lớn trong việc suy ngẫm, xem xét về bản thân. Nếu gặp phải lúc ấy mà không chịu suy ngẫm lại thì tất hối hận không kịp về lỗi lầm đã phạm phải. Vì vậy, khi con người vui mừng, khi phẫn nộ, khi tâm trí lười nhác, khi hành vi có chút khinh nhờn thì đều phải tự hỏi chính mình: lời nói, hành vi, cử chỉ của ta có phải là đã vượt ra khỏi quy phạm đạo đức của ngày thường rồi chăng?
Trong “Thái căn đàm” (菜根谭), Hồng Ứng Minh yêu cầu mọi người phải làm được “Ta có công với người thì không thể nhắc lại, nếu có lỗi với người thì không thể không nhắc; người có ơn với ta thì không thể quên, nếu người có oán với ta thì không thể không quên” (我有功于人,不可念,而过则不可不念;人有恩于我,不可忘,而怨则不可不忘). Chỉ có như thế thì mới có thể tiến bộ, đức hạnh mới có thể được nâng cao. “Người có lỗi thì nên tha thứ, nhưng bản thân có lỗi thì không được tha thứ, bản thân bị khổ nhục thì cần phải nhẫn nhịn, nếu người bị khổ nhục thì không thể không giúp người giải thoát sự khổ nhục ấy” (人之过误宜恕,而在己则不可恕;己之困辱当忍,而在人则不可忍).
Trong “Thân ngâm ngữ, Phản kỷ” (呻吟语‧反己) có nói: “Thường nhìn nhận rằng, mình chưa hẳn đã đúng, người chưa hẳn đã sai, như thế mới có tiến bộ; lại thấy rằng người người ai cũng đều có chỗ có thể học hỏi, còn bản thân mình còn quá nhiều sai sót, như thế mới càng tiến bộ” (常看得自家未必是,他人未必非,便有长进;再看得他人皆有可取,吾身只是过多,更有长进). Trong “Viên thị thế phạm, Xử kỷ” (袁氏世范‧处己), Viên Thái đời Nam Tống nói rằng, “Phép xử sự của con người là phải thường xấu hổ đối với những sai phạm đã qua, thường xấu hổ đối với những lời thất thố trước đó, thường xấu hổ đối với những kiến thức còn thiếu của năm xưa, như thế sẽ làm con người càng trở nên có hiền có đức, nhanh chóng tiến bộ mà người thường không nhận thấy (人之处事,能常悔往事之非,常悔前言之失,常悔往年之未有知识,其贤德之进,所谓长日加益,而人不自知也). Hối hận có giá trị cao hơn đắc ý tự kiêu, biết hối hận chính là một biểu hiện của sự tiến bộ. Bởi vì trong khi hối hận, người ta đã nhận ra được cái lỗi của mình nằm ở đâu. Trong một đời người, nếu như có thể mỗi ngày đều tự nhận thấy bản thân còn có điều hối tiếc thì chắc chắn sẽ rất có tiến bộ. Mà hệ quả của sự hối hận chính là tự suy ngẫm bản thân; người biết suy ngẫm về bản thân thì đức tính của anh ta sẽ được nâng cao mà ngay bản thân anh ta cũng không nhận thấy ra vậy!
2. Xưng nhân chi thiện (称人之善Khen cái giỏi của người khác)
Giữa trách kỷ (trách mình) và trách nhân (trách người), trong nội bộ của Nho gia cũng có nhiều khác biệt ý kiến, có người yêu cầu chỉ trách mình mà không trách người, có người lại nhấn mạnh trách mình mà ít trách người, có người lại chủ trương có thể trách người, có người lại không muốn trách người khác. Nhưng trên đại thể, đa số các nhà Nho đều có chủ trương khen ngợi ưu điểm và cái tốt của người mà không muốn chỉ trích nhiều đến khuyết điểm và những lỗi lầm của người. Về Khổng tử, lập trường về trách mình và trách người của ông cũng có thay đổi. Trong “Luận ngữ, Nhan Uyên” (论语‧颜渊), Khổng tử nói: “Công kích cái xấu của mình chứ không công kích cái xấu của người” (攻其恶,无攻人之恶), nhưng trong “Luận ngữ, Vệ Linh Công” (论语‧卫灵公), Khổng tử lại nói: “Cung kính khiêm nhường hết mực, cố gắng ít trách móc người khác” (躬自厚而薄责于人). Tuy vậy, Nho gia cũng không phản đối việc phê bình và chỉ trích người khác, thậm chí còn cho rằng, nếu xuất phát từ động cơ lương thiện thì việc phê bình và chỉ trích người khác sẽ giúp cho người khác có thể sửa được những lỗi lầm của họ.
Trong khi đó, “Lễ ký, Phường ký” (礼记‧坊记) dường như không chủ trương trách người mà chỉ nhấn mạnh đến trách mình, đem cái hay cái tốt cho người mà nhận cái lỗi lầm về mình. “Cái hay phải dùng để khen người, cái lỗi phải dùng để trách mình, như thế thì mọi người sẽ không tranh nhau. Cái hay phải dùng để khen người, cái lỗi phải dùng để trách mình, như thế thì mọi oán hận sẽ tiêu vong” (善则称人,过则称己,则民不争。善则称 人,过则称己,则怨益亡). “Cái hay phải dùng để khen người, cái lỗi phải dùng để trách mình, như thế thì dân chúng mới hướng thiện; Cái hay phải dùng để khen chúa, cái lỗi phải dùng để trách mình, như thế thì dân chúng mới biết đến chữ Trung; Cái hay phải dùng để khen người thân, cái lỗi phải dùng để trách mình, như thế thì dân chúng mới biết đến chữ Hiếu” (善则称人,过则称己,则民让善;善则称君,过则称己,则民作忠;善则称亲,过则称己,则民作孝). Trong “Thái căn đàm” (菜根谭), Hồng Ứng Minh nói: “Không trách lỗi lầm nhỏ nhặt của người, không để bụng đối với người, không nhớ đến cái xấu cũa của người, ba điều này sẽ giúp con người dưỡng đức, cũng có thể giúp con người tránh được sự tàn hại” (不责人小过,不发人阴私,不念人旧恶,三者可以养德,亦可以远害).
Trong “Thân ngâm ngữ, Bổ di” (呻吟语‧补遗), Lữ Khôn nói: “Khen một điều thiện của người thì ta đồng thời cũng có thêm một điều thiện, thế thì ta bất tất phải đố kỵ với người? Chê một điều ác của người thì ta đồng thời cũng mắc thêm một điều ác, thế thì ta bất tất phải chê bai người? (称人一善,我有一善,又何妒焉?称人一恶,我有一恶,又何毁焉). Do vậy, đã là quân tử thì nên chú tâm đến việc khen ngợi người khác, học cách biểu dương và khuyến khích người khác. Đồng thời, trong “Đệ tử quy” (弟子规), Giả Mộc Trai đã khuyên người đời rằng: “Khen cái tốt đẹp của người, đó là điều thiện vậy; người nghe lời khen tất sẽ gắng gỏi hơn nữa. Rêu rao cái xấu của người, đó là điều ác vậy. Đó chính là nguồn gốc của lỗi lầm, của cái hoạ” (道人善,即是善;人知之,愈思勉。扬人恶,即是恶。疾之甚,祸且作). Trong giao tiếp, cái hoạ thường từ cửa miệng đi ra, do vậy mà cần phải cẩn trọng hết mực trong lời nói, tốt nhất là nói ít, cần giữ một khoảng trầm mặc vừa phải để tránh điều thị phi.
Từ xưa đến nay, không ai là thập toàn thập mỹ, hoàn toàn phù hợp với đạo đức, vì vậy mà không nên trách người khác quá nhiều. “Lễ ký, Biểu ký” (礼记‧表记) có nói: “Anh không thể vì mình có tài mà phê bình người khác bất tài, không thể vì người khác thua anh mà anh chê cười khiến người khác phải xấu hổ” (君子不 以其所能者,病人;不以人之所不能者,愧人). Trong “Trung thuyết, Nguỵ tướng” (中说‧魏相), Vương Thông nói: “Đạo làm người quân tử là không oán trách về năng lực và những khiếm khuyết của người khác, không nhấn mạnh những thiếu sót của người khác, không chì chiết hay đùa cợt về những thói xấu của người khác” (君子不责人所不及,不强人所不能,不苦人所不好).
3. Trách mình và trách người như thế nào
Vấn đề là, nếu chỉ nhấn mạnh trách mình mà không trách người thì mọi người sẽ không tranh luận nhau, nhưng ai cũng đều ấm ức trong lòng, làm sao nảy sinh ra được chân lý về đạo đức? Do vậy, các chủ trương về trách mình và trách người trong nội bộ Nho gia đều có lý lẽ của nó. Trong “Lã Thị xuân thu, Ly tục lãm, Cử nan” (吕氏春秋‧离俗览‧举难) có nói: “Quân tử trách người thì dùng chữ nhân, trách mình thì dùng chữ nghĩa. Dùng chữ nhân để trách người thì sẽ dễ làm người vừa ý, mà vừa ý thì sẽ dùng được người; dùng chữ nghĩa để trách mình thì sẽ không làm sai, không dễ bị những sai phạm che lấp, như thế là hợp với đất trời” (故君子责人则以仁,自责则以义。责人以仁则易足,易足则得人;自责以义则 难为非,难为非则行饰;故任天地而有余). Nếu lấy chữ nghĩa làm tiêu chuẩn khi phê bình bản thân thì sẽ khó làm được điều thiện, hành vi của bản thân sẽ trở nên rụt rè cẩn thận; nếu dùng chữ nhân khi phê bình người khác thì người sẽ vừa lòng, sẽ được lòng người. Nhưng ai ai cũng đều có tật xấu, nên khi phê bình người thì bản thân mới biết đạo lý, còn tự phê bình mình thì bản thân sẽ chẳng nhớ đến đạo lý nào. Vì thế, trong “Vương Dương Minh toàn tập, Quyển thập thất, Nam Cán hương ước” (王阳明全集‧卷十七‧南赣乡约) có nói: “Người tuy ngu dốt, nhưng khi trách người khác thì bản thân tất sẽ sáng ra; người tuy thông minh nhưng khi tự trách mình thì tất sẽ ngờ nghệch” (人虽至愚,责人则明;虽有聪明,责己则昏).
Trong “Thái căn đàm” (菜根谭), Hồng Ứng Minh chỉ ra: “Người biết trách người khác vốn là để không mắc lại cái lỗi đã mắc, cái tâm tính tất sẽ được bình hoà; người biết trách bản thân chính là người mong mỏi đạt đến cảnh giới sáng suốt, do vậy mà cái đức luôn được nâng cao” (责人者,原无过于有过之中,则情平; 责己者,求有过于无过之内,则德进). Trong “Truyền gia bảo” (传家宝), Thạch Thành Kim nói: “Yêu người thân như yêu chính người vợ của mình, đó là đại hiếu; bảo vệ đất nước như bảo vệ chính gia đình của mình, ấy là tận trung. Trách bản thân mình như trách người khác thì sẽ tránh được nhiều lỗi lầm, khoan dung người khác như khoan dung chính bản thân mình thì tất sẽ được lòng người” (以爱妻之心爱亲,则大孝;以保家之心保国,则尽忠。以责人之心责己,则寡过;以恕己之 心恕人,则全交). Nếu được như thế thì mới có thể được gọi là đại hiếu, đại trung, ít phạm lỗi lầm và làm được điều thiện cho kẻ khác. Những điều ấy vừa khớp với tiêu chuẩn hành vi của một người quân tử.
Mục đích của việc tự trách bản thân mình chính là sửa đổi những lỗi lầm đã qua. Được như thế thì việc trách cứ bản thân phải thực hiện nghiêm khắc như đang trách cứ người khác vậy, như thế mới giảm thiểu được lỗi lầm. Khi đối mặt với lỗi lầm và sai sót, điều đầu tiên chúng ta cần làm chính là xử sự bằng một thái độ tích cực, chính xác và lành mạnh. Vương Dương Minh nói: “Không ai là người không phạm điều lầm lỗi, thánh hiền cũng không ngoại lệ, nhưng không vì thế mà họ không xứng được xưng tôn là thánh hiền, vì họ có thể sửa lỗi. Do vậy mà ta không quá quý trọng kẻ không có lỗi, mà quý trọng những người có thể sữa được lỗi” (夫过者,自大贤所不免,然不害其卒为大贤者,为其能改也。故不贵于无过,而贵于能改过). Tức là, khi so sánh thánh nhân với những người bình thường thì có một sự khác biệt rất lớn, đó chính là khi thánh hiền phạm lỗi thì họ có thể sửa lỗi, còn người bình thường thì không làm được. Nếu có lỗi mà không biết hối lỗi thì tất sẽ dẫn đến tội lỗi càng lớn hơn vậy. Mạnh Tử cũng từng phê phán những người không biết hối lỗi, đấy chính là những kẻ tiểu nhân đã sai mà vẫn cứ để sai, “người quân tử ngày xưa có lỗi thì biết sửa lỗi, còn kẻ quân tử ngày nay có lỗi thì để mặc như thế” (Mạnh tử, Công Tôn Sửu hạ) [孟子‧孙丑下]. Trong “Luận ngữ, Vệ Linh Công” (论语‧卫灵公), Khổng tử nói: “Có lỗi mà không chịu sửa thì đấy mới gọi là lỗi” (过而不改,是谓过矣). Hiền nhân Nhan Hồi cũng từng mắc phải lỗi lầm, đó là điều hết sức bình thường, nhưng điều đáng quý ở đây chính là ông ta chưa từng “mắc lại lỗi lầm như thế lần thứ hai” (不贰过) (Luận ngữ, Ung Dã) [论语‧雍也]. Khổng tử yêu cầu mọi người “có lỗi thì đừng ngại sửa” (Luận ngữ, Học nhi) [论语‧学而]. Sữa lỗi luôn là một công việc đòi hỏi đến nghị lực và sự dũng cảm. Trong “Nhan Nguyên tập, Nhan Tập Trai tiên sinh ngôn hành lục, Quyển thượng, Bốc ngôn” (颜元集‧颜习斋先生言行录‧卷上‧卜言) có nói: “Ta và người hướng về cái thiện mà sửa chữa những lỗi lầm, bất kể là lỗi lầm ấy là lớn hay nhỏ thì cũng đều phải dốc hết sức mình” (吾人迁善 改过,无论大小,皆须以全副力量赴之). Sửa chữa sai lầm cần phải chân tâm thành ý, đã là sai lầm thì cần phải sửa đổi toàn diện, không thể ngần ngại, nương tay để di hoạ về sau.
Trong “Chu Thuấn Thuỷ tập, Tạp trước, Thứ” (朱舜水集‧杂著‧恕) có nói: “Đạo dung thứ phải tu dưỡng suốt đời; nếu dùng phương thức khoan dung chính mình để thoả mãn những dục vọng của mình thì sẽ nảy sinh lòng nhờn láo, không biết kiêng dè và chỉ có thể sống tạm bợ qua ngày. Cùng là một đạo của thánh hiền, nhưng phút chốc lại đi đến hai lối rẽ giữa một bên là ‘khắc niệm’ (tức ý niệm khắc chế bản thân - TDK) và một bên là ‘võng niệm’ (tức ý niệm bất chính, tà vọng – TDK). Nếu người có học thức biết khắc chế bản thân mà khoan dung đối với người thì sẽ đạt được chữ Nhân vậy (藏身以恕,终身可行;任情自恕,安肆日偷。均是圣贤之道,一转移间,遂分‘克念’、‘罔念’之关。学者果能严于攻己, 又能恕以及物,为仁之道,其在是乎?).
Điều quan trọng của việc trách bản thân chính là phải biết chế phục những dục vọng. Vào thời kỳ đầu, Nho gia yêu cầu con người phải chế dục, tức là hạn chế và gò ép những dục vọng nguyên thuỷ và những rung động bản năng của chính mình. Nhưng về sau, Nho gia cũng thừa nhận và cho phép con người có dục vọng, Chu Hy nói: “Ăn uống và quan hệ nam nữ đều xuất phát từ bản năng”, nhưng “tính dục và ăn uống không hoàn toàn nằm trong phạm vi của bản năng, mà nó là cái có thể kiểm soát quản lý được” (饮食男女,固出于 性。性之不止于食色,其有以察之矣!). Do vậy mà họ không chủ trương tuyệt dục, diệt dục mà nhấn mạnh đến việc dùng lý tính đạo đức làm sự tự giác của nhân tâm để khơi thông và dẫn dắt bản năng, tiết chế dục vọng. “Người có dục vọng không phải là không tốt mà đấy chỉ có thể gọi là nguy cơ, là người đang tiềm ẩn nguy hiểm; trước khi rơi xuống nguy hiểm, nếu là kẻ vô nhân tâm thì tất sẽ hướng về cái tà ác, không thể nào ngăn mối nguy hiểm được nữa (人欲也未便是不好,谓之 危者,危险,欲堕、未堕之间,若无道心以御之,则一向入于邪恶,又不止于危也). Sự tồn tại của dục vọng là hoàn toàn chính đáng, nó giúp con người kéo dài sinh mệnh của mình, do vậy, phàm là những nhu cầu sinh lý bình thường thì đều cần phải đáp ứng đầy đủ. Và sở dĩ nó tồn tại trong bản thân của mỗi người cũng là điều hợp lý, vì không ai có thể tiêu diệt chính mình. Nhưng nếu chỉ chuyên tâm làm thoả mãn những dục vọng này thì con người chẳng khác gì so với các loài động vật khác. Do vậy, điều quan trọng hơn cả là con người phải làm sao cho xứng là con người. Con người có lễ, có nghĩa, con người còn phải thể hiện ra giá trị của bản thân mình trong quá trình giao tiếp xã hội. Vì vậy, con người cần phải tích cực nuôi dưỡng tâm tính, khiến cho tình và dục được hợp lý, có quy tắc, không để nảy sinh ra rối loạn. Mục đích tu thân quan trọng nhất của Nho gia chính là tự giác bồi dưỡng lý tính đạo đức, gò ép bản tính động vật của con người, khiến bản năng của con người có thể nghe theo sự tự giác của đạo đức.
Trong “Thái căn đàm” (菜根谭) có nói: “Không gió trăng hoa liễu thì không thành tạo hoá; không dục vọng yêu thích thì không thành tâm tính. Chỉ lấy bản thân để lay chuyển vật chứ không lấy vật để lay chuyển ta, có như thế thì những dục vọng, những yêu thích mới trở thành thiên cơ, những tình cảm phàm trần mới sáng tỏ” (无风月花柳,不成造化;无情欲嗜好,不成心体。只以我转物,不以物役我,则嗜欲莫非天机,尘情即是理境矣!). Tình tuy phi lý, dục tuy bất lễ nhưng tất cả đều có thể giáo hoá, cải tạo mà hướng về lý, lễ, từ đó mà đi vào quỹ đạo của nhân tính bình thường. Khác với Phật gia, Nho gia thừa nhận và cho phép sự tồn tại của tình dục, nhưng lại nhấn mạnh việc hạn chế và điều tiết một cách thích đáng, không phóng túng làm bại hoại kỷ cương lễ pháp. Mà phương pháp hữu hiệu nhất để có thể hạn chế và điều tiết dục vọng chính là đề cao cảnh giác, “mắt thấy và tai nghe là giặc ở bên ngoài, tình dục và ý thức là giặc ở bên trong. Chỉ cần tỉnh táo sáng suốt, ngồi ung dung giữa phòng thì giặc sẽ trở thành người nhà vậy!” (耳目见闻为外贼,情欲意识为内贼。只是主人公惺惺不昧,独坐中堂,贼便化为家人矣!). Nếu luôn đứng ở cảnh giới tự giác cao độ của đạo đức thì tất sẽ kiện toàn, không có gì xâm hại được.
Vì vậy, Nho gia luôn nhấn mạnh việc dùng lý trí để uốn nắn dục vọng, dùng lý trí để khắc chế dục vọng. Trên thực tế, lý trí và dục vọng không đối lập nhau, lý trí và dục vọng có thể dung hoà nhau, có thể nói rằng, lý tính chính là sản phẩm của dục vọng, sở dĩ nó được phát sinh chính là nhờ vào sự lay động của dục vọng. Uốn nắn dục vọng, khắc chế dục vọng chỉ là dùng đạo lý để áp chế những dục vọng quá đáng, không phải đạo. Không có dục vọng thì con người không thể phát triển, nhưng điều quan trọng là giữa đạo lý và dục vọng phải có một lực trương hợp lý, giúp chúng có thể giằng kéo nhau để đạt được sự cân bằng.
Trên thực tế, quan niệm về trách bản thân và trách người của Nho gia không hoàn toàn trực tiếp tạo dựng thế đối lập giữa đạo lý và dục vọng. Đới Chấn thường kịch liệt phản đối quan niệm về sự đối lập giữa đạo lý và dục vọng, vì thế mà nổi tiếng. Trong “Mạnh tử tự nghĩa sơ chứng, Lý” (孟子字义疏证‧理) có nói: “Cái gọi là đạo lý chính là điều tiết dục vọng nhưng không dồn nén dục vọng của người đến bước đường cùng (天理者,节其欲而不穷人欲也). Lý tính đạo đức chính là phép tắc tất yếu trong dục vọng tự nhiên của con người, dùng lý tính để chế khắc dục vọng nhưng hoàn toàn không dùng để tiêu diệt dục vọng, mà chính là dưới sự dẫn dắt của lý tính để đạt tình thoả dục, khiến dục vọng của con người được chính đáng hoá, được hợp lý hoá và được thoả mãn đầy đủ. Do vậy, giữa đạo lý và tình dục thì luôn phải giữ một lực cân bằng: “điều tiết mà không vượt quá mức, phải nương theo đạo lý; nếu không dùng đạo lý để uốn nắn thì cái dục vọng của con người sẽ trở thành tà vọng” (节而不过,则依乎天理;非以天理为正,人欲为邪也).
4. Bất trách nhi trách (不责而责 Không trách nhưng lại trách)
Trách người là cần thiết, nhưng là một người quân tử thì phải suy ngẫm đến phương pháp trách người. Khổng Tử nói: “Bạn bè thân thiết với nhau thì khuyên nhau cùng gắng gỏi, tiến bộ” (朋友切切、偲偲) (Luận ngữ, Tử Lộ) [论语‧子路], tức là người quân tử phải chân thành khuyến thiện sửa lỗi, phải có đủ sự thương yêu khi phê bình người khác. Trong “Truyền gia bảo” (传家宝), Thạch Thành Kim có nói: “Công kích cái xấu của người thì không nên quá nghiêm, cần phải suy nghĩ xem người ấy có chịu đựng được hay không; dạy người điều thiện thì không nên đòi hỏi quá cao, cốt là để người có thể làm được” (攻人之恶毋太严,要思其堪受;教人以善毋过高,当令其可从).
Trong “Thân ngâm ngữ, Thận ngôn” (呻吟语‧慎言), Lữ Khôn nói: “Trách móc người khác đến mức khiến người ngậm miệng, cong lưỡi, đỏ mặt, đẫm mồ hôi lưng mà vẫn châm chích không thôi thì quả là quá khắc bạc! Do vậy, quân tử khi công kích người khác thì không nên vượt quá bảy phần, cần phải nói ngắn gọn đủ để khiến người khác hổ hẹn mà tự sửa chữa” (责人到闭口卷舌、面赤背汗,犹刺刺不已,岂不快心!然,浅隘、刻薄甚矣!故君子攻人,不得过七分,须含蓄以养人之愧,令其自新,则可). Nho gia thậm chí còn đề xướng ra một kiểu không trách mà lại trách, không dùng lời nói mà khuyên người hướng thiện. Trong “Luận ngữ, Vệ Linh Công” (论语‧卫灵公) có nói: “Người quân tử thì muốn bản thân hoàn thiện, kẻ tiểu nhân lại muốn người khác hoàn thiện” (君子求诸己,小人求诸人). Bản thân đã hoàn thiện một đức tính tốt đẹp nào đó mới có thể yêu cầu người khác làm được như vậy; bản thân mình không có khuyết điểm mới có đủ tư cách để phê bình người khác, đó chính là phương pháp cơ bản giúp tránh được sự oán hận của người khác. Nhưng, điều đó hoàn toàn không phải là bắt buộc người khác phải hội đủ đức tính tốt đẹp giống như mình, và cũng không lấy tiêu chuẩn đạo đức của bản thân mình để phê bình những sai lầm của người khác, nếu đạt được trình độ như thế thì sẽ khiến người khâm phục và càm động thật lòng.
Nhưng, chỉ mỗi trách người thì vẫn chưa thể giải quyết được toàn bộ vấn đề về đạo đức. Theo Nho gia, phương pháp cao minh hơn so với việc trách người chính là tích cực cảm hoá người, dẫn dắt chính xác, đề phòng việc họ phạm vào sai lầm. Trí tuệ sinh ra từ tinh thần, mà tinh thần lại sinh ra từ sự vui vẻ. Do vậy, trách người hay nổi giận sao sánh bằng việc giáo dục, giáo dục sao lại sánh bằng cảm hoá, nên cứ thong dong rộng rãi, lượng thứ những thiếu sót của người, cảm nhận được những điều không thích của người; tuỳ việc mà giảng dạy, tuỳ lúc mà khuyên nhủ. Người có vui vẻ thì mới tiếp thu một cách chân thành, vui vẻ làm việc thiện, cảm kích sự khoan dung mà tự hổ thẹn về điều thiếu sót của mình.
Con người không phải là cỏ cây, yêu cầu cần thiết ở đây chính là khả năng có thể sửa đổi, một thời gian sau thì tự nhiên sẽ có tiến bộ. Vì vậy, trong “Thượng thư” (尚书) có chỉ ra 5 kiểu giáo hoá cần phải chú trọng đến sự khoan dung; trong “Luận ngữ” (论语), Khổng tử khuyến thiện dần dần đối với các đệ tử của mình. Nhưng đến nay, rất nhiều người không truyền đạt mệnh lệnh của mình mà buộc người khác phải làm trước; bản thân không nói rõ mà buộc người khác phải hiểu rõ; chưa phân công mà đã trách mắng người một cách tuỳ tiện, khiến người bị trách mắng không biết mình đã phạm vào lỗi gì. Nếu như thế thì hai bên sẽ oán giận nhau ngày càng sâu, cả hai đều bị tổn thương.