1. Lạp nguyệt /腊月 (tháng chạp)
Tháng chạp là cách gọi tháng mười hai âm lịch. Tại sao tháng mười hai lại gọi là tháng chạp?
Điều này có liên quan đến “lạp tế” cuối năm của thời cổ đại xa xưa. Thời xưa, “lạp” /腊 /蜡 chỉ hoạt động cúng tế thần, tổ vào mùa đông gần cuối năm. Vì hoạt động cúng tế này được tổ chức vào tháng mười hai, cho nên tháng mười hai cũng được gọi là “lạp nguyệt” /腊月 / 蜡月 (tháng chạp). Cách gọi “lạp nguyệt” thời thượng cổ này đã nhiều lần thay đổi theo thời gian. Phong tục thông nghĩa nói: đời Hạ gọi là “gia bình” /嘉平, đời Ân gọi là “thanh tự” /清祀, đời Chu là “đại lạp” /大蜡, đời Hán đổi thành “lạp” /腊. Cách gọi “lạp nguyệt” là cách gọi sau cùng nhất, nhưng ảnh hưởng lớn, và được dùng đến ngày nay.
Một cách giải thích khác, chữ “lạp” /腊 là từ chữ “liệp” /猎 (săn bắt) mà ra, hai chữ này thời cổ đại là một. Vào cuối năm, khi việc nông hoàn tất, do mùa đông nhàn việc, người ta đã tổ chức săn bắt thú để cúng tế thần linh, tổ tiên, cầu được phúc, đón điều lành, tiêu trừ tai nạn, gọi là “lạp tế” /腊祭. Thiên tử vẫn khấn cầu năm mới với tổ tiên. Hoạt động cúng tế từ thiên tử đến lê dân bá tánh cùng tham dự này đã lưu truyền, trở thành phong tục cúng tế tháng chạp.
Chỗ giống nhau của hai cách giải thích này là đều gọi tháng mười hai là “lạp nguyệt”, ý nghĩa là khấn váy và tạ ơn quỷ thần cuối năm, do vậy có thể giải thích tại sao trong tháng chạp hoạt động cúng tế đặc biệt nhiều.
2. Lạp bát /腊八 (mồng tám tháng chạp)
Ngày tổ chức cúng tế tháng chạp gọi là “lạp nhật” /腊日, ngày này trong một thời gian dài không xác định chính xác. Thời Tiên Tần có nơi lấy ngày này làm ngày tết, nhưng không cố định là ngày mồng tám tháng mười hai. Đời Hán lấy ngày Tuất (ngày thứ ba sau đông chí) là “lạp nhật”. Đến Nam Bắc Triều, một số địa phương của Nam Triều xác định ngày này là ngày mồng tám tháng chạp. Trong Kinh sở tuế thời ký của Tông Lâm Nam Triều có xác định ngày mồng tám tháng mười hai là “lạp nhật”. Ngạn ngữ có câu: “lạp trống đánh, xuân cỏ mọc”. Vào ngày này, người thôn quê đánh trống, mang râu làm kim cang lực sĩ để trừ bệnh tật. Có thể thấy rằng, mồng tám tháng chạp thời Nam Triều, ngoài việc cúng tế ra, hoạt động đuổi bệnh tật, trừ tội chướng cũng rất náo nhiệt.
Ngày nay nói đến mồng tám tháng chạp, người ta ít biết đến các hoạt động cúng tế và đuổi bệnh tật của thời cổ đại, nhưng vẫn còn tập tục vui chơi ăn cháo mồng tám tháng chạp.
3. Lạp bát chúc /腊八粥 (cháo mồng tám tháng chạp)
Tục ăn cháo mồng tám tháng chạp có liên quan đến Phật giáo. Tương truyền rằng, Phật tổ Thích Ca Mâu Ni nhận bát cháo của người mục nữ dâng, sau đó ngộ đạo thành Phật. Thích Ca Mâu Ni trước khi thành Phật đã trải qua sáu năm tu khổ hạnh mà không đạt được gì, tự thấy rằng phương pháp tu khổ hạnh không mang lại kết quả, thế là Ngài xuống sông tắm rửa, nhưng do sức khỏe quá yếu nên không có sức leo lên bờ. Mục nữ Sunadan (nghĩa là Thiện sinh) đỡ Ngài lên và dâng cho Ngài bát cháo. Phật Tổ sau khi ăn xong đã hồi phục sinh lực, và ngồi dưới cây bồ đề đắc đạo thành Phật. Ngày này là ngày mồng tám tháng mười hai, Phật giáo gọi ngày này là “ngày thành đạo”. Cháo mà người mục nữ dâng cho Phật là “Nhũ chúc”, tức dùng sữa bò và gạo, hạt dẻ nấu thành, là thượng phẩm trong các món cháo của Ấn Độ. Đệ tử Phật môn rất xem trọng bát cháo giúp thêm sinh lực và linh cảm cho Phật Tổ này, gọi là liều thuốc bổ. Ngày đắc đạo lại trùng hợp với “lạp nhật” của truyền thống Trung Quốc, vào ngày này các chùa lấy “cháo Phật” cúng Phật, và bố thí cho dân chúng. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo, dân gian Trung Quốc hình thành phong tục ăn cháo mồng tám tháng chạp.
Tập tục ăn cháo mồng tám tháng chạp, trong Kinh sở tuế thời ký của Tông Lâm Nam Triều chưa nói đến, nhưng đời Đường đã có tập tục này, đời Tống đã phổ biến rộng rãi trong dân gian. Trong Thập nhị nguyệt – Đông kinh mộng hoa lục của Mạnh Nguyên Lão đời Tống có nói: “tháng chạp, ngày mồng tám, … các chùa lớn làm lễ tắm Phật, và dâng cháo thất bảo ngũ vị, gọi là cháo ‘lạp bát’. Người thành thị thì nhà nhà lấy hương vị quả nấu cháo mà ăn”. Trong Mộng lương lục của Ngô Tự Mục cũng có nói rằng: “mồng tám tháng này, ở chùa gọi là ‘lạp bát’. Các chùa lớn nhỏ đều nấu món cháo ngũ vị, gọi là cháo mồng tám tháng chạp, còn gọi là cháo Phật”.
Về cách nấu cháo mồng tám tháng chạp, hiện nay phần lớn là nấu hỗn hợp các thứ gạo, kê, táo hồng, hạt dẻ, bột ấu, mức táo, lạc nhân, hạnh nhân, hạt sen, cà rốt, long nhãn v.v.. Ở mỗi địa phương có đặc sản và truyền thống khác nhau thì có cách phối hợp khác nhau. Ví dụ ở Bắc Kinh dùng rất nhiều loại, như táo hồng, hạt sen, hạch đào, hạt thông, nhãn, quả phỉ, nho, hột gà, củ ấu, hạt bo bo, đậu đỏ, đậu phộng v.v., tổng cộng không dưới hai mươi loại! Tối mồng bảy tháng chạp, người ta vo gạo, rửa quả, bóc vỏ, bỏ hạt, chọn lại những quả tốt, bận rộn đến nửa đêm. Khi nấu, trước tiên cho lửa lớn đun sôi, sau đó để lửa nhỏ riu riu, mãi đến sáng ngày mồng tám hôm sau thì cháo mới thật sự chín.
Cháo mồng tám nấu xong, trước tiên phải dọn lên bàn cúng thần linh, tổ tiên. Sau khi cúng xong, cho cháo vào từng hợp phân biếu bạn bè người thân (nhất định phải biếu vào sáng sớm, không thể để quá trưa), sau đó mới đến cả nhà lớn nhỏ cùng ăn cháo mồng tám. Gà, chó trong nhà cũng phải ăn cháo mồng tám này. Cháo mồng tám tháng chạp rất bổ dưỡng, có câu ca dao “cháo mồng tám tháng chạp, cơm mồng tám tháng chạp, gà ăn rồi đẻ trứng”. Đến cây cối trong vườn cũng được bón cho một chút cháo mồng tám, tin rằng làm như vậy cây quả sang năm sẽ say trái trĩu quả, được mùa.
Đến tháng chạp là mùa xuân gần kề, ánh mặt trời xuân bắt đấu xuất hiện, cỏ xuân đâm chồi. Từ xa xưa đã có câu ngạn ngữ “trống chạp đánh, cỏ xuân mọc”. Người ta đánh trống tháng chạp, ca múa náo nhiệt đón mừng năm mới sắp đến. Nông dân bón phân mùa đông trên đồng ruộng của mình, gọi là “phân tháng chạp”, để tăng độ phì nhiêu cho đất canh tác, nâng cao nhiệt độ thổ nhưỡng, bảo vệ mầm non qua đông, chuẩn bị tốt cho năm tới được mùa.
Qua ngày tám tháng chạp, nhân thời tiết đông lạnh, nhiệt độ tương đối thấp, phụ nữ ướp thịt heo, thịt dê, gọi là “lạp nhục” 腊肉 (thịt tháng chạp). “Lạp nhục” có thể giữ được một thời gian dài, qua đến mùa hạ vẫn không bị thối rữa, không có mùi hôi, là thượng phẩm dùng để đãi khách.
Tháng chạp còn có phong tục gõ canh. Bắt đầu vào tháng chạp, mỗi tối, có một người tay cầm cái chiêng, đi qua các con đường vào tận các ngỏ hẻm, vừa đánh vừa hô:
Tháng chạp lạnh lẽo, cẩn thận củi lửa;
Đề phòng kẻ trộm, cửa nẽo đóng chặt;
Xem chừng nhà củi, xúc bớt đống tro;
Trước sau nhà bếp, cẩn thận củi lửa.
Ở Hàng Châu người ta hô thế này: “Tháng chạp lạnh lẽo, trên dưới gác lầu; Trước sau nhà bếp, vĩ rang hấp gà. Nhà hai bên đường, cẩn thận củi lửa!”
Phong tục gõ canh tháng chạp vẫn còn truyền đến ngày nay. Ở nông thôn, tháng chạp phải tổ chức những người đánh trống canh giữ ban đêm, phòng lửa củi và trộm cắp. Ở thành phố cũng tăng cường công tác an toàn và phòng hỏa. Người ta tuyên truyền những ngày đón xuân chú ý phòng hỏa hoạn, trộm cắp bằng những thông báo dán trên tường, bảng đen ở các ngỏ hẻm để mọi người chú ý.
Nguồn: người dịch