MẢNH TRĂNG NÚI MIKASA
Abe No Kanamaro 阿倍 仲麻呂 là một nhân vật lịch sử, một nhà thơ rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Sử sách nào viết về thời cổ của Nhật Bản cũng ít nhiều nhắc đến tên ông. Thơ ông ( bài tanka 短 歌 sẽ nói dưới đây) được xếp vào một trong 100 bài tanka hay nhất của Nhật Bản từ thời cổ cho đến thời Heian 平 安(2)
Đúng như tác giả Châm Vũ đã nói ở trên, ngay từ thời Nhật Bản mới thành lập, triều đình nước này đã liên tục cử nhiều đoàn sứ thần và “lưu học sinh” sang Trung Quốc tiếp thu văn minh Trung Hoa (Nho, Phật, thể chế chính trị…). Những đoàn ấy người Nhật gọi là “Khiển Tùy sứ”遣 隋 使 , “Khiển Đường sứ” 遣 唐 使(sứ thần sang nhà Tùy, nhà Đường). Trong khoảng gần 200 năm từ thời Nara 奈良(710-794) đến đầu thời Heian-khi tạm bãi bỏ Khiển Đường sứ (năm 894)-có đến 18 đoàn được cử sang chính thức. Mặc dù vượt biển Nhật Bản trong điều kiện lúc bấy giờ là cực kỳ gian nan nguy hiểm, nhưng số người tham gia lưu học ở Trung Quốc vẫn rất đông, có đoàn đến 557 người.
Abe no Nakamaro tham gia đoàn thứ 8, vào năm 716 (niên hiệu Linh Quy thứ 2). Abe no Nakamaro sinh năm 698 (có tài liệu ghi năm 701). Khi được chọn cử đi du học, ông mới 19 tuổi. Đoàn Khiển Đường sứ mà Abe tham gia rời Nhật Bản năm 716, năm 717 thì đến kinh đô Trường An. Abe được nhận vào học ở nhà Thái học, nơi dành cho con em gia đình quí tộc từ hàng ngũ phẩm trở lên. Nổi tiếng học giỏi, sau nhiều năm dùi mài kinh sử, Abe được đề cử lên triều đình nhà Đường và được cho làm quan. Ông đã trải qua nhiều chức vụ, khởi đầu từ Tả xuân phòng Tư kinh cục hiệu thư (năm 24 tuổi), rồi lên Tả thập di (năm 30 tuổi), Tả bổ khuyết (năm 34 tuổi), Bí thư giám kiêm Vệ úy hương (khoảng 55, 56 tuổi). Mặc dù là người nước ngoài nhưng ông vẫn được làm quan ở Trung Hoa, và con đường hoạn lộ như thế được coi là hanh thông.
Nhưng vinh hoa xứ người vẫn không làm Abe no Nakamaro quên được nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Làm quan được 10 năm, Abe lấy lý do cha già để xin vua Đường Huyền Tông cho trở về nước, nhưng không được chấp nhận.
Năm 753, nhân có đoàn sứ thần Nhật Bản rời Trường An về nước, Abe xin được tháp tùng trở về, năm ấy ông 56 tuổi. Đoàn này có 4 con thuyền do Đại sứ Fujiwara no Kiyokawa藤原 清河 làm trưởng đoàn. Abe đi trên con thuyền thứ nhất cùng Đại sứ. Đoàn đã rời Trường An, qua cửa Tô Châu để ngược lên hướng bắc về Nhật Bản.
Đêm ấy trời trong trăng sáng, trên mạn thuyền, Abe dạo chơi ngắm trăng, lòng dạt dào cảm xúc nhớ cố hương-đã 37 năm rồi xa cách. Bài tanka nổi tiếng, sau này được người Nhật ngàn đời nhắc nhở, đã hình thành vào lúc này:
Ama no hara 天の原
Furisake mireba ふりさけ見れば
Kasuga naru 春日なる
Mikasa no yama ni 三笠の山に
Ideshi tsuki kamo いで し月かも
Đúng 5, 7, 5, 7, 7 âm tiết theo điệu tanka quen thuộc của người Nhật từ xưa, mấy chục năm ly hương mà Abe vẫn không quên.
Bầu trời bát ngát
Ngẩng đầu lên ngắm nhìn
Mảnh trăng kia có phải
Từ núi Mikasa, Kasuga quê ta
Mọc lên.
Kasuga春日 là vùng đất thuộc tỉnh Nara hiện nay. Abe nhìn thấy mảnh trăng-mảnh trăng của muôn đời, của muôn nơi-nhưng với ông lại có mảnh trăng của riêng mình, chỉ có mảnh trăng của riêng mình. Đó là mảnh trăng thuở ấu thơ, mảnh trăng mà cậu bé Abe đã từng thấy mọc lên từ núi Mikasa 三 笠 vùng Kasuga quê nhà.
Thế nhưng ông không bao giờ trở về Kasuga được nữa. Thuyền ra khơi thì mắc cạn, sau đó lại gặp bão. Cả đoàn tơi tả. Nhiều tháng sau những con thuyền gặp bão cũng lần lượt cập vào những hòn đảo phía nam Nhật Bản. Chỉ trừ có chiếc thuyền thứ nhất, thuyền có trưởng đoàn Fujiwara no Kiyokawa và Abe no Nakamaro thì không có tin tức gì.
VỚI LÝ BẠCH VÀ VƯƠNG DUY
Trong Toàn Đường thi 全唐詩 (3)quyển 184 có một bài thơ của Lý Bạch 李白 khóc bạn nhan đề Khốc Triều Hương Hành
哭 朝 香 行
日 本 朝 香 辞 帝 都
征 帆 一 片 蓬 湖
明 月 不 帰 沈 海
白 雲 愁 色 満 倉
Nhật Bản Triều Hương từ Đế đô
Chinh phàm nhất phiến nhiễu Bồng Hồ
Minh nguyệt bất quy trầm bích hải
Bạch vân sầu sắc mãn thương ngô
Triều Hương (Triều Hương Hành) là ai? Đó chính là Abe no Nakamaro. Triều Hương Hành là tên đặt theo kiểu Trung Quốc của ông. Trung văn đại từ điển, mục từ Triều Hương và Triều Hành đều ghi rõ:
“Triều Hành là văn nhân người Nhật Bản tên là A Bội Trung Ma Lữ 阿 倍 仲 麻 呂 (đọc theo âm Nhật là Abe no Nakamaro-ĐLG), năm 16 tuổi du học ở nhà Đường, học xong được Huyền Tông cho làm chức Bí thư giám, cùng vơiù nhóm Lý Bạch, Vương Duy xướng họa thơ ca. Sau muốn theo Khiển Đường đại sứ về nước, trên đường về thì gặp bão…”
Abe No Nakamaro làm quan ở Trường An đúng vào thời Thịnh Đường. Ông từng chứng kiến thời đại huy hoàng của văn hóa Trung Hoa, từng biết đến những nhân vật nổi tiếng đương thời: ông vua lãng mạn Đường Huyền Tông, người đẹp Dương Quý Phi, gian thần Cao Lực Sĩ, tể tướng Quý Lâm Phủ, “ hoàng đế” tiếm ngôi An Lộc Sơn… và tất nhiên Abe cũng quen biết và học hỏi được nhiều ở các thi nhân Thịnh Đường hàng đầu lúc bấy giờ: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, rồi Vương Xương Linh , Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích, Sầm Tham, Lưu Trường Khanh, Triệu Hoa v.v. Trong đó ông thân với Lý Bạch và Vương Duy hơn cả .
Trong bữa tiệc tiễn sứ đoàn Nhật Bản về nước, Đường Huyền Tông có làm thơ tặng sứ đoàn (bài Tống Nhật Bản sứ), Vương Duy thì tặng riêng cho Abe no Namaro một bài văn dài: Tống Bí thư Triều giám hoàn Nhật Bản quốc bính tự 送 秘 書 朝 監 還 日 本 国 併 序(Bài viết tiễn ông Bí thư Triều giám trở về Nhật Bản) kết thúc bằng bài thơ ngũ ngôn trường thiên, bốn câu cuối cùng là:
郷 浮 桑 外
主 人 孤 島 中
別 離 方 異
音 信 若 為 通
…Hương thụ Phù Tang ngoại
Chủ nhân cô đảo trung
Biệt li phương dị vực
Âm tín nhược vi thông
(… Quê nhà ngoài chốn Phù Tang
Bạn tôi sẽ sống giữa hòn đảo xa
Biệt ly đất khác hai ta
Thư từ tin tức biết là sao đây)
Riêng với Lý Bạch, quan hệ giữa Abe và vị “Thi Tiên” có lẽ thân thiết hơn cả. Lý Bạch sinh năm 701, Abe sinh năm 698 - hơn Lý Bạch 3 tuổi. Còn nếu theo thuyết Abe sinh năm 701 thì hai ông cùng một tuổi. Năm 742 Lý Bạch vào Trường An (đến lúc đó Abe đã ở Trường An 25 năm rồi ), được thi sĩ Hạ Tri Chương tri ngộ tiến cử, nên được Huyền Tông cho làm một chức quan bút mực cho vui - chức Hàn lâm cung phụng. Abe no Namaro lúc ấy đang làm quan chức Tả thập di, quen biết Lý Bạch chính trong thời gan đó. Quan hệ giữa Lý và Abe có lẽ thân thiết lắm. Lý Bạch từng mặc áo cừu do Abe tặng khi rời Trường An lên Quảng Lăng, như chính ông đã viết:
Thân trước Nhật Bản cừu
Ngang tàng xuất phong trần
(Tống Vương Ốc sơn nhân Ngụy Vạn hoàn Vương Ốc)
(Khoác áo cừu Nhật Bản
Trước gió bụi ngang tàng)
Trong bài thơ chữ Hán (kanshi) ngũ ngôn cổ phong nổi tiếng của Abe làm trước khi quay về Nhật Bản có 2 câu cuối rất đáng chú ý :
平 生 一 宝 剣
留 贈 結 交 人
Bình sinh nhất bảo kiếm
Lưu tặng kết giao nhân
(Khâm mệnh sứ bản quốc) (4)
Nghĩa là tôi có một thanh gươm quý nhất trên đời, đã tháo ra tặng một người bạn thân. Người bạn ấy là ai? Ai mà thân đến mức được tặng kiếm? ai mà thích được tặng kiếm? Tôi nghĩ là Lý Bạch, vì ông từng mặc áo của Abe, và trong số bạn của Abe chỉ có ông là kiếm khách .
Khi Abe theo tàu về nước(năm 753) thì lúc ấy Lý Bạch đã rời Trường An phiêu du lên vùng Quảng Lăng. Ở đó Lý Bạch nghe tin thuyền của Abe gặp bão và chắc là Abe đã chết rồi. Thái Bạch đau buồn vô hạn. Bài Khốc Triều Hương Hành đã nói ở trên đượclàm ra trong hoàn cảnh đó. Bài thơ chứa chan tình cảm, đẹp và buồn tê tái. Có thể nói đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình bạn của thi hào Lý Bạch:
KHỐC TRIỀU HƯƠNG HÀNH
Nhật Bản Triều Hương từ Đế đô
Chinh phàm nhất phiến nhiễu Bồng Hồ
Minh nguyệt bất quy trầm bích hải
Bạch vân sầu sắc mãn thương ngô
KHÓC TRIỀU HƯƠNG HÀNH
Bạn Nhật Triều Hương rời Đế đô
Buồm mây một lá đã xa bờ
Trăng sáng không về chìm bể biếc
Sắc buồn mây trắng, trắng Thương ngô.
“Minh nguyệt” và “bích hải”: cái chết của bạn như vầng trăng sáng sa xuống biển xanh. “Bạch vân” và “Thương ngô”: mây trắng phủ một sắc buồn đầy phương Nam, màu trắng của mây, trắng một màu tang tóc (Thương ngô là điển nhưng Thương cũng là màu xanh. Tương tự như Tú Xương đã chơi chữ tài tình, dùng Thương trong Thương ngô có thêm cả nghĩa thương nhớ: Người đi Tam đảo, Ngũ hồ-Kẻ về khóc trúc Thương ngô một mình). Mây trắng mang màu tang tóc, cũng hàm ý nhớ quê(điển Bạch vân). Còn vầng trăng kia có liên quan gì đến vầng trăng mọc lên từ núi Mikasa Kasuga trong bài tanka của Abe không?
LƯU LẠC TỚI AN NAM
Như một phép lạ, Abe no Nakamaro không “trầm bích hải”. Con thuyền của Fujiwara no Kiyokawa và Abe no Nakamaro gặp bão trôi dạt xuống vùng đất lạ phương Nam. Sách Tục Nhật Bản kỷ (chính sử của Nhật Bản hoàn thành vào năm 797) viết: “… Lúc trở về gặp gió ngược trôi dạt đến tận Hoan châu, phía nam của nhà Đường”.
Nước ta lúc bấy giờ đang bị Trung Quốc đô hộ với tên gọi An Nam. Châu Hoan đối với Nhật Bản rất xa lạ, rất khó xác định, nhưng đối vơi người Việt thì châu Hoan cùng với Diễn, Ái là khá quen thuộc. Châu Hoan tức là vùng Hà Tĩnh, Việt Nam hiện nay.
Tiếc là khi thuyền của Fujiwara và Abe dạt đến vùng châu Hoan (năm 754), thì chắc là do bị hiểu lầm, nên đã có cuộc một chạm trán khá gay go giữa người trên tàu với dân địa phương. Cuối cùng thì một số người trên tàu bị bắt. Sau khi hiểu ra, số này được giúp đỡ đưa về Trung Quốc. Fujiwara no Kiyokawa và Abe no Nakamaro nằm trong số đó. Abe trở lại Trường An, được vị vua mới là Đường Túc Tông tiếp tục cho làm quan với chức Tả tán kỵ thường thị - một chức quan có nhiệm vụ giúp việc bên cạnh nhà vua : cố vấn, can gián, tấu trình và ứng đối… Ông cũng được phong mấy chức quan có liên quan đến An Nam như: Trấn Nam (An Nam) đô hộ, rồi An Nam tiết độ sứ. Về việc này giới sử học Nhật Bản vẫn còn chưa thống nhất: một bên thì cho Abe làm quan ở An Nam thật (quan điểm này trước 1945 bị nhóm có tư tương cục hữu lợi dụng , cho Abe là người Nhật đã từng cai trị An Nam từ trướcthế kỷ 10), nhưng một bên khác, đưa ra nhiều lập luận có tính thuyết phục hơn, cho rằng: những chức quan liên hệ đến An Nam phong cho Abe chỉ có tính chất danh dự, còn Abe vẫn làm việc ở Kinh đô. Vậy là cho đến cuối đời, hơn 15 năm sau khi lưu lạc ở An Nam trở về, tác giả bài tanka về “vầng trăng núi Mikasa” không quay về cố hương Nhật Bản nữa. Abe no Nakamaro mất vào năm 770 (Đại Lịch thứ năm đời Đường Đức Tông) tại Trường An, thọ 73 tuổi. Sau khi mất ông được truy tặng chức Lộ Châu đại đô đốc(5). Còn vị “Thi Tiên” bạn ông - Lí Bạch, đã mất trước Abe 8 năm- năm 762.
CHÚ THÍCH
(1) Châm Vũ Nguyễn Văn Tần: Nhật Bản sử lược, Tập I, Tự Do xuất bản,Sài Gòn, 1959, tr.191
(2) Tức 100 bài thơ dùng làm trò chơi kiểu như “đánh thơ” có tên là Bách nhân nhất thủ (Một trăm nhà thơ, mỗi người một bài- Hyakunin isshu)
(3) Toàn Đường thi, In lần thứ hai, Trung Hoa thư cục xuất bản, Bắc Kinh, 1979 (Hán văn)
(4) Dẫn theo Quốc ngữ bách khoa, Đại tu thư điếm, Tokyo, 1992, tr.225 (tiếng Nhật)
(5) Ngoài những tư liệu đã ghi rõ xuất xứ, những tư liệu khác viết về Abe no Nakamaro chủ yếu dựavào cuốn Khảo sát văn hóa đời Đường, tập I: Nghiên cứu về Abe no Nakamaro
Nguồn : vanhoahoc.edu.vn công bố với sự đồng ý của tác giả