1. ĐỊNH NGHĨA
Cũng như một số ngành khoa học khác như Nhân học (có Nhân học ứng dụng), Xã hội học (có XHH ứng dụng), Ngôn ngữ (có ngôn ngữ học ứng dụng) thì Văn hóa học cũng có một nhánh là Văn hóa học ứng dụng (VHHUD). Văn hóa học ứng dụng có thể được hiểu là:
- Vận dụng kiến thức, phương pháp và kỹ năng nghiên cứu của văn hóa học và một số khoa học có liên quan (khi cần sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành) vào việc giải quyết những bài toán cụ thể của địa phương (quốc gia, khu vực, cộng đồng) cho một vấn đề thuần văn hóa hay một chiều kích văn hóa nào đó của những vấn đề kinh tế-xã hội.
- Tổng kết, đúc rút ra những bài học, những quan điểm, những lý thuyết văn hóa từ thực tế sinh động. Những kết luận định tính này sẽ quay trở lại bổ xung cho VHH lý thuyết và đồng thời cũng lại làm phong phú hơn cho chính văn hóa học ứng dụng.
- VHHUD là cầu nối giữa văn hóa học lý thuyết và đời sống xã hội
Chính vì vậy mà VHHUD được coi là một phần tiếp nối của VHH cơ bản và là một nhành (branch) của ngành VHH.
2. VHHUD CÓ THỂ ĐƯỢC MÔ TẢ CÁC CẤP ĐỘ NHƯ SAU
3. VAI TRÒ CỦA VHHUD TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Như đã nói ở trên VHHUD là cụ thể hóa của VHH lý thuyết vào một bối cảnh cụ thể. Nó đóng các vai trò sau đây:
3.1. Nhận diện và mô tả một vấn đề văn hóa
Cần phải hiểu rằng VHH là một môn khoa học tổng hợp (trong tiếng Anh sử dụng Cultural studies, ở đây việc học tập và nghiên cứu được sử dụng ở số nhiều) do vậy nó sử dụng một số phân ngành của khoa học khác làm công cụ, trong số đó thì phương pháp tiếp cận và nghiên cứu định tính của xã hội học được sử dụng rộng rãi nhất. Bằng các kỹ thuật phỏng vấn, kỹ thuật quan sát thống kê, kỹ thuât thu thông thông tin sơ cấp bằng bảng hỏi, chúng ta có thể tiến hành nhận diện một cách khá chính xác một sự kiện, hiện tượng, qúa trình xã hội trong một khung cảnh văn hóa, hoặc chiều kích văn hóa của một đối tượng cụ thể đang vận động cũng như mô tả một thực trạng văn hóa bằng nhiều biến số khác nhau.Việc mô tả này có thể là mô tả thống kê cơ bản hay mô tả xã hội dựa trên việc điều tra các nguyện vọng và nhu cầu văn hóa trong một tầng lớp người hay một cộng đồng dân cư ở nhiều cấp độ và qui mô khác nhau. Đối tượng nghiên cứu trở nên sáng rõ hơn dưới mắt nhà văn hóa khi chúng được biểu diễn bằng các cột con số, đồ thị, các sơ đồ, biểu mẫu dựa trên các chỉ số, các tần số, tần suất, trung bình cộng, tối thiểu hoặc tối đa .Việc nhận diện và mô tả là một yêu cầu bắt buộc trong việc hoạch định chính sách văn hóa, nếu không hiểu rõ ràng về đối tượng thì không thể đưa ra được các đề án khả thi, kế hoạch hoàn hảo trong văn hóa. Chính vì vậy xã hội học đã được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của kinh tế, chính trị, qui hoạch đô thị ,. . . sử dụng như một công cụ hữu ích và hết sức cần thiết trong qúa trình hoạt động. Do vậy"xã hội học sẽ làm một công cụ hữu hiệu để cho con người có thể xây dựng cho mình một xã hội tốt đẹp hơn “[1]. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng các kỹ thuật định lượng rất quan trọng, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa khi nó được kết hợp với các phương pháp nghiên cứu định tính khác và các thao tác tư duy ở bậc cao. Một điểu tra viên có thể đếm được số người đến nhà thờ mỗi buổi sáng, nhưng không thể chắc chắn rằng tất cả mọi người đến đó là có niềm tin tôn giáo.
3. 2. Trưng cầu ý kiến về đề án văn hóa
Một chương trình, một đề án văn hóa dù được các nhà nghiên cứu thực hiện công phu đến mấy, hoàn hảo đến mấy thì vẫn không thể nào đảm bảo chắc chắc là sẽ thành công trong thực tế. Do vậy bằng phương thức trưng cầu ý kiến, điều tra dư luận xã hội của VHHUD sẽ thu nhận được ý kiến phản hồi từ nhiều kênh khác nhau. Đây là hình thức mà người ta muốn thu nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ nhiều phía để nhằm mục đích thay đổi, chỉnh lý một đề án, kế hoạch, chương trình chuẩn bị đưa ra thực hiện hoặc đã thực hiện được một thời gian rồi nhưng có điều gì đó bất ổn.Theo sau việc trưng cầu ý kiến thì VHHUD còn có khả năng thực nghiệm xã hội trong một qui mô nhỏ để rút kinh nghiệm trước khi mang ra đáp dụng đại trà trên một qui mô lớn.Việc thực nghiệm trong VHHUD trong văn hóa sẽ giảm bớt những tổn thất về tiền bạc, thời gian cũng như uy tín. Ở Việt Nam hình thức thực nghiệm này lâu nay không được coi trong cho nên dẫn đến rất nhiều chương trình bị thất bại không đáng có.
3. 3. Xây dựng các chính sách văn hóa
VHHUD có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu cho các nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và văn hóa nói riêng. Chính dựa trên các kết luận, nhận định, các nghiên cứu so sánh giữa các trạng thái văn hóa khác nhau theo đồng đại hay lịch đại mà các nhà chính trị, các chuyên gia có cơ sở để xây dựng các đề án và các giải pháp mang tính khả thi. Có thể khẳng định chắc chắn là không một nhà chính trị nào hay một đảng phái nào khi làm chính sách mà lại bỏ qua khía cạnh văn hóa cũng như ý kiến của các nhà văn hóa. Đó là một yêu cầu bắt buộc cho dù đó là một dự án tưởng chứng thuần túy kiến trúc, kinh tế, dân số.
3.4. Phản biện các chính sách nói chun g và chính sách văn hóa nói riêng
Một chức năng rất quan trọng của VHHUD là đóng vai trò phản biện các chính sách xã hội nói chung và chính sách văn hóa nói riêng. Chính nhờ có phản biện mà các chính sách này dù ở tầm vi mô hay vĩ mô trở nên chính xác hơn, hoàn thiện hơn. Bất cứ một đề án, một kế hoạch văn hoá hay không thuộc lĩnh vực văn hóa liên quan đến quốc kế dân sinh bao giờ cũng cần có sự phản biện từ các nhà VHHUD hay ít ra là các nhà khoa học xã hội có nhãn quan của nhà VHHUD. Với chúng ta điều này dường như còn mới mẻ, nhưng ở các nước phát triển đó là việc làm rất phổ biến và bắt buộc cách đây hàng chục năm. Một vài người ở cương vị lãnh đạo có tâm lý ngán ngại sự phản biện từ các nhà khoa học.Thật ra việc phản biện không phải như một số người cho là hành vi phá đám của nhóm người “cuồng chữ”, mà bản thân nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chúng ta cần phải hiểu thật nghiêm túc rằng văn hóa có mặt ở tất cả mọi nơi, mọi chỗ mà con người sống và tồn tại. Một cây cầu, một cái chợ, một vỉa hè đều mang ý nghĩa văn hóa.Văn hóa học không nên giới hạn và không chỉ tồn tại trong giảng đường đại học hay các Viện Hàm Lâm. Sức sống của nó chính là từ những cái tưởng như bình thường nhất. Chính trên ý nghĩa đó mà chức năng phản biện của Văn Hóa học mà vai trò chính thuộc về VHHUD trở nên quan trọng biết nhừng nào. Hoàn toàn có lý khi mà Plêkhanốp - Nhà tư tưởng lớn đã từng nói: “Khoa học xã hội cần phải trở thành khoa học chính xác như khoa học tự nhiên”.
3.5.Dự báo văn hóa
Chẳng phải thừa tiền mà khi còn tại vị, tổng thống Pháp Mitơrăng đã bỏ ra một số tiền khổng lồ để tiến hành điều tra trên 100.000 thanh niên Pháp về nhu cầu, thị hiếu, xu hướng lựa chọn lối sống trước khi ông ta cho tiến hành xây dựng một chiến lược văn hóa. Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết dự báo, các nhà VHHUD sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của VHHUD. Lê Nin đã từng nói khoa học xã hội “không phải chỉ giải thích qúa khứ,mà còn dự kiến tương lai một cách mạnh dạn và thực hiện những dự kiến ấy bằng những hành động dũng cảm “ [2]. Các nhà xã hội học văn hóa của Anh đã khẳng định"Xã hội học văn hóa không chỉ đơn thuần là một nghành khoa học lý giải và phân tích đời sống xã hội, mà còn là phương tiện thay đổi xã hội".[3]
3.6. Đào tạo cán bộ văn hóa thực hành
Hiện nay thành phố Hồ Chí Minh có 365 phường, xã, mỗi phường xã đều có ít nhất 2 cán bộ làm văn hóa, nếu kể cả các cán bộ văn hóa các cấp từ thành phố đến quận, huyện, các sở ban ngành, phòng thì có thể số cán bộ làm văn hóa lên đến trên 10.000 người, chưa kể những người phụ trách văn hóa ở các nhà máy, doanh nghiệp. Trong số này có bao nhiêu người tốt nghiệp đại học văn hóa, cao đẳng VH-NT, chắc là không nhiều lắm. Do vậy nhu cầu đào tạo cán bộ văn hóa, nhất là văn hóa cấp cơ sở là một nhu cầu thực tế và cấp bách. Trong chương trình đào tạo cử nhân VHH chắc chắn VHHUD đóng một vai trò rất quan trọng.
4. CẤU TRÚC MÔN VĂN HÓA HỌC ỨNG DỤNG
Tôi thử hình dung ra môn VHHUD có cơ cấu như sau:
- Đường lối VH của đảng CS và chính phủ Việt Nam.
- Quản lý nhà nước về văn hóa
- Tổ chức các hoạt động văn hóa chuyên nghiệp
- Tổ chức văn hóa cơ sở
- Các phương pháp và kỹ thuật điều tra XHH ứng dụng trong văn hóa
- Các phương pháp xây dựng các đề án và dự án văn hóa
- Luật văn hóa (di sản VH, bảo tồn bảo tàng, bản quyền sản phẩm văn hóa,v.v..)
- Những vấn đề văn hóa và phát triển ở TP.HCM và khu vực lân cận
- Kinh tế thị trường và văn hóa
- Văn hóa trong qui hoạch, kiến trúc
- Văn hóa trong môi trường sinh thái
- Văn hóa du lịch
- Văn hóa quần chúng
- Bảo tàng
- Lưu trữ v.v..
Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử và đòi hỏi từ thực tế mà có thể thêm vào hay bớt đi một số môn học, nhất là những môn chủ yếu là đóng vai trò cung cấp kiến thức. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh là đối với VHHUD thì việc thực tập, thực tế, điền dã và mời các chuyên gia từ hoạt động thực tếù, các học gỉa không bằng cấp đến báo cáo chuyên đề là hết sức cần thiết. Đó chính là nguồn tư liệu, kinh nghiệm bổ xung rất qúi gía cho ngành VHH.
KẾT LUẬN
Văn Hóa Học nếu như xây dựng thành công ở Việt Nam thì nó là một ngành học mới. Những ngành học sinh sau đẻ muộn thường có nhiều thuận lợi, nhưng cũng có rất nhiều khó khăn, một trong những khó khăn đó là sự đòi hỏi của dư luận xã hội (kể cả những cơ quan chức năng) trong việc phân định rạch ròi giữa nó và các khoa học khác theo quan niệm hàn lâm cổ điển, tức là nó phải có đối tượng nghiên cứu rõ ràng cũng như hệ phương pháp thật rạch ròi. Nếu như chúng ta thống nhất với nhau rằng khoa học xã hội hiện đại là khoa học liên ngành, không thể và không nên tách bạch một cách rạch ròi ra bởi vì chúng có những phần chồng lấn lên nhau và kế thừa của nahu. Chẳng hạn trong nhiều trường hợp khó phân biệt đâu là Xã Hội Học đâu là Nhân Học Văn Hóa, chúng ta cũng tìm thấy một tình trạng tương tự như vậy trong VHHUD và xã hội học Văn hóa. Nếu như chúng ta đồng ý với nhau rằng suy cho cùng thì đối tượng của tất cả các khoa Học Xã Hội và Nhân Văn là con người thì việc Văn Hóa Học (trong đóù có VHHUD) ra đời là hợp lẽ. Nếu như chúng ta nhận thức được một điều quan trọng là nếu ngành khoa học đó hướng tới phục vụ xã hội và xã hội thực sự có nhu cầu thì chúng ta không cần phải trả lời câu hỏi Văn Hóa Học là gì? mà nên đi tìm câu trả lời rằng Văn Hóa Học, VHHUD nghiên cứu cái gì? Nghiên cứu chúng như thế nào ? và nó mang lại lợi ích gì cho xã hội . Hoàn toàn có lý khi L.Ionin nói rằng “ Các ý định xác định rõ các khoa học ấy và phân định lĩnh vực ảnh hưởng của chúng đều đã bị thất bại. Các đối tượng, phương pháp của mỗi một môn khoa học sẽ khác nhau về cơ bản khi chuyển từ quốc gia này đến quốc gia khác, từ trường phái này sang trường phái khác, thậm chí từ nhà khoa học này sang nhà khoa học khác. Không thể xác định và phân định chúng một cách có khoa học và chặt chẽ “ [4]. Như vậy rốt cục lại lý do để cho một khoa học tồn tại hay không là ở chỗ quốc gia đó có cần nó hay không? chứ không phải ở chỗ nó có tồn tại trong quốc gia khác không?
Tài liệu tham khảo
1. Khoa học xã hội và Nhân văn bước vào TK XXI. Trường ĐH KHXH và NV, 2001 (kỷ yếu hội thảo)
2. L.G.Iônin, Xã Hội Học Văn Hóa.Matxcơva,1996,Tr13,14.
3. Tony Bilton và các Tgk. Nhập môn xã hội học. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội 1993. Tr 44. Người dịch :Phạm Thủy Ba.
4. Tạp chí Khoa Học xã hội, số 47, 2001
5. V.I Lê Nin, toàn tập, NXB Tiến Bộ, Matxcơva,Tập 26, tr 88 (tiếng Nga)
Nguồn: Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn hóa học tổ chức tháng 1-2006.
[1] Tony Bilton và các Tgk. Nhập môn xã hội học. NXB Khoa học Xã hội.
Hà Nội 1993. Tr 44. Người dịch :Phạm Thủy Ba.
[2] V.I Lê Nin,toàn tập,NXB Tiến Bộ,Matxcơva,Tập 26,tr 88 .
[3] Tony Bilton và các Tgk. Nhập môn xã hội học. NXB Khoa học Xã hội.
Hà Nội 1993. Tr 44. Người dịch :Phạm Thủy Ba.
[4] Xem.L.G.Iônin,Xã Hội Học Văn Hóa.Matxcơva,1996,Tr13,14.
.