Thành phố thay đổi đến choáng ngợp. Đường phố lao nhao, lốn nhốn. Nhà cửa khang trang nhô lên cạnh bên những xóm hẻm ngoằn ngoèo. Sự thể nghiệm các biện pháp hành chánh - kinh tế kéo dài nhiều thập niên làm rào cản để ngăn ngừa chứng bệnh to đầu của thành thị, vẫn không tránh được việc lập ra các quận mới. Các huyện, thị còn lại tương lai không xa sẽ "lên đời" thành quận hoặc trở thành các khu đô thị mới, đô thị vệ tinh, đô thị công nghiệp… Nông thôn bị khủng hoảng trầm trọng trước thảm họa triệt tiêu. Không ít các giá trị nền tảng của văn hóa truyền thống bị lung lay, kể cả có nguy cơ bị bứng gốc, trong đó hệ thống thiết chế văn hóa xây dựng trên nền tảng nông thôn - nông nghiệp không thể vô sự đứng ngoài cuộc.
Thiết chế văn hóa thường bị đóng khung trong các hoạt động của ngành văn hóa thông tin, với mô hình thiết chế theo truyền thống gồm 6 mặt: thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, thông tin cổ động, sinh hoạt câu lạc bộ, nếp sống. Mô hình này thích hợp trong điều kiện xã hội nông thôn khép kín, có thành phần cư dân thuần nhất. Còn trong quá trình đô thị hóa, nhất là đối với các khu đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, các mô hình và các phương thức hoạt động thiết chế văn hóa nhất định phải có biến chuyển. Song chuyển biến như thế nào và tại sao thì cho đến nay còn rất ít được đề cập.
Trong thời gian qua tại Thành phố Hồ Chí Minh có hiện tượng mâu thuẫn: Do xã hội đổi thay mạnh mẽ, nhiều tích cực và cũng có đầy dẫy tệ nạn tiêu cực, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đã được phát động kịp thời trên cả nước, với nhiều cuộc vận động, trong đó có thể xác định trọng tâm là xây dựng "đời sống mới", đặc biệt ở các khu dân cư, và điểm nhấn là "xã hội hóa" các hoạt động văn hóa. Tuy nhiên, không ít các thiết chế văn hóa tháng này năm khác vẫn "bình chân như vại", chậm đổi mới. Thiết chế văn hóa được triển khai theo kiểu cũ, dựa theo địa giới hành chánh, vận dụng các mô hình ở nông thôn (từ làng văn hóa đến ấp, khu phố văn hóa, rồi phường văn hóa, quận văn hóa), tưởng chừng nông thôn là "thành trì" cứu vãn, bảo tồn bản sắc dân tộc, hoặc để cố thủ, nói theo một công trình nghiên cứu, "trước những thách thức của quá trình đô thị hóa"(!).
Tình hình này dẫn đến hai hệ quả bất cập: một, các hoạt động thiết chế văn hóa có biểu hiện dần dần xa cách với đời sống xã hội, ít thu hút, sa vào hình thức hoặc nặng về bề nổi, tác động hạn hẹp đối với các phạm vi của đời sống văn hóa; hai, vai trò "quản lý Nhà nước" các hoạt động thiết chế văn hóa có xu hướng bị hành chánh hóa quan liêu, độc đoán; nặng phần "tĩnh", thiếu tính liên kết; không đủ sức đóng tròn vai, bao quát toàn bộ đời sống văn hóa của xã hội. Nhà nước không hiếm khi là "đối trọng" của cộng đồng, hoặc sự hỗ trợ của đối tác Nhà nước chỉ "sắm vai phụ", thậm chí đứng bên lề các hoạt động thiết chế văn hóa của cộng đồng.
Đã có nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, các dịp liên hoan, tổng kết, các đợt tập huấn, bồi dưỡng cho các cuộc vận động của phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", trong đó có các hoạt động xây dựng thiết chế văn hóa. Song cho đến nay vấn đề này hầu như còn để ngõ. Qua thời gian theo dõi hoạt động của các hệ thống thiết chế văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi xin mạnh dạn nêu lên đây vài vấn đề suy nghĩ, dù biết rằng không thể tránh khỏi những nhận định có phần chủ quan, còn thiếu sót hoặc phiến diện do chưa có điều kiện tiếp cận các mặt hoạt động một cách sâu sát hơn. Trong bài này, chúng tôi sẽ đề cập các nội dung sau:
1. Vai trò thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội.
2. Khái quát các thời kỳ xây dựng thiết chế văn hóa trong quá trình đô thị hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Thử phân tích tính chất hoạt động của hệ thống các thiết chế văn hóa hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đánh giá vị trí, vai trò của cộng đồng trong chủ trương "xã hội hóa" và sự cần thiết xúc tiến các nỗ lực tương hỗ của Nhà nước trong các hoạt động thiết chế văn hóa hiện nay.
OOo
1- Văn hóa là tiến trình không có hồi kết cuộc. Dù ở quy mô rộng hay hẹp, văn hóa đều không phải là cái khuôn đúc sẵn, tạo nên các sản phẩm văn hóa giống nhau. Sự hình thành sản phẩm văn hóa bao giờ cũng là một phức hợp gồm ba yếu tố: vật chất, tinh thần và xã hội. Yếu tố xã hội trong sản phẩm văn hóa chịu sự chi phối của hai trục không gian và thời gian, không hoàn toàn gắn với vai trò quản lý của một chế độ Nhà nước mà đó là các hoạt động đánh dấu sự tồn tại của một cộng đồng trong đời sống xã hội.
Mọi sản phẩm văn hóa đều là biểu hiện về mặt xã hội của cộng đồng. Nếu chỉ có giá trị vật chất mà thiếu các khía cạnh mang ý nghĩa tinh thần, hoặc không còn tác dụng về mặt xã hội thì sản phẩm ấy dù vẻ bề ngoài được sơn phết hào nhoáng đến đâu cũng chỉ là cái bã xác tầm thường, vô giá trị. Ngược lại, nếu chỉ có khía cạnh tinh thần theo quan điểm duy tâm siêu hình, mang giá trị định tính mà không có giá trị định lượng của vật chất, thiếu hoặc không có tác động về mặt xã hội thì sản phẩm ấy suy cho cùng giống như hồn ma bóng quế, phiêu diêu bất định. Cho nên, sản phẩm văn hóa cần có thiết chế biểu hiện cụ thể các giá trị vật chất, làm sợi dây ràng buộc liên kết các mối quan hệ giữa con người với con người, từ quá khứ đến hiện tại, đáp ứng nhu cầu hiện tại và phát triển tương lai, tức là bảo tồn và phát huy các giá trị hoạt động của các cộng đồng trong đời sống xã hội, vượt qua giới hạn không gian và thời gian.
Ngoài các phương tiện vật chất trang thiết bị, thiết chế văn hóa còn bao gồm các phương thức tổ chức và vận hành để liên kết các thành phần xã hội trong các cộng đồng khác nhau, trong phạm vi không gian và thời gian nhất định, làm cho các hoạt động thiết chế văn hóa trở nên sống động. Với ý nghĩa này, Nhà nước đóng vai trò tổ chức và quản lý trên phạm vi đại thể hoặc toàn cục, song không vì thế mà xem nhẹ vai trò của cộng đồng thuộc các tổ chức, giới, nhóm, dân tộc, thành phần xã hội khác nhau. Ngoài vai trò thành viên xã hội (đa phần mang ý nghĩa khách thể), họ thực sự còn là chủ thể tham gia hoạt động trong các thiết chế văn hóa của cộng đồng. Việc xây dựng các thiết chế văn hóa là yêu cầu tất yếu trong đời sống chính trị của một quốc gia dân tộc, trải qua các thời kỳ khác nhau, nhằm cố kết và phát triển các cộng đồng. Thiết chế văn hóa giống như các mạch máu lưu thông nuôi sống các cơ thể cộng đồng, nhờ đó mà xã hội tồn tại và phát triển.
Như vậy, thiết chế văn hóa (institutions culturelles) là các phương tiện vật chất trang thiết bị (équipements), các cách thức tổ chức và vận hành nhằm thiết lập mối tương quan giữa sản xuất văn hóa và tiêu dùng văn hóa của các cộng đồng khác nhau trong đời sống xã hội. Nhờ có các thiết chế văn hóa vận hành mà con người phát triển hài hòa, toàn diện và toàn năng. Thiết chế văn hóa là một phức hợp gắn kết cộng đồng, đáp ứng các nhu cầu vật chất, tinh thần và xã hội của cộng đồng. Tính phức hợp của thiết chế văn hóa không phụ thuộc vào cơ chế bộ máy của cơ quan quản lý, mà chủ yếu đó là các quy tắc, phương thức vận hành các công cụ văn hóa (outils culturels) như là tác nhân trung gian (médiation) tác động lên đời sống xã hội.
Với tư cách là tác nhân trung gian (médiateurs), thiết chế văn hóa không tồn tại bất di bất dịch mà có vai trò tác động trực tiếp lên đời sống xã hội theo quy luật phát triển. Tùy theo từng thời kỳ mà thiết chế văn hóa có các đặc điểm về loại hình, tính chất hoặc có các phạm vi hoạt động khác nhau về phương diện vật chất, tinh thần và xã hội. Ở thời kỳ văn minh nông nghiệp, thiết chế văn hóa thường được quan niệm khép kín, làm trì trệ về mặt xã hội chủ yếu do cách nhìn giới hạn trong phạm vi làng xã. Thực ra, mô hình thiết chế văn hóa ở thời kỳ này không chỉ vận hành theo cơ chế riêng rẽ của từng làng theo kiểu các lãnh địa phong kiến ở Tây Âu, mà còn bao gồm các hoạt động giao lưu văn hóa diễn ra bên ngoài lũy tre làng như các phiên chợ trao đổi hàng hóa, các hoạt động giao thương hình thành "con đường tơ lụa", hoặc sự liên kết chặt chẽ với kinh thành về chính trị, kinh tế, xã hội theo kiểu "phương thức sản xuất châu Á", làm cho làng xã ở phương Đông không thuộc cấu trúc bất động, mà sớm vận hành như một thiết chế văn hóa sống động trong đời sống xã hội theo mô hình nhà - làng - nước.
Ở thời kỳ phát triển văn minh công nghiệp, các hoạt động thiết chế văn hóa tập trung chủ yếu ở thành thị, "cứ điểm" của các kinh thành hoặc kinh đô phong kiến thuở xưa. Thành thị không hoàn toàn liên kết về mặt cấu trúc với nông thôn nông nghiệp mà ngày càng có xu hướng độc lập, liên kết giữa thành thị với các khu vực sản xuất - trao đổi và hoạt động dịch vụ, hình thành quan hệ thị trường (thị vẫn là đầu mối của trường phát triển). Các thiết chế văn hóa ở thời kỳ này không còn thu hẹp hoặc bị câu thúc trong phạm vi cộng đồng hoặc đơn vị lãnh thổ, mà có khuynh hướng mở rộng, mang tính đại chúng hoặc phổ biến. Thiết chế văn hóa được "truyền bá" không còn trong phạm vi từng làng, khu phố theo kiểu "thánh làng nào làng đó thờ", mà gắn với môi trường xã hội của các cộng đồng, trong phạm vi thành phố, khu vực, cả nước hoặc quốc tế, đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú về vật chất và tinh thần của cư dân. Nhiều thiết chế văn hóa được xác lập mang tính hiện đại, chuyên nghiệp, thể hiện bản sắc với quy mô về chiều rộng và độ lớn mang tầm vóc của thành phố, quốc gia hoặc liên quốc gia.
Thiết chế văn hóa, theo nghĩa hẹp, gắn với một cộng đồng cụ thể, trên phạm vi một khu vực lãnh thổ hoặc một lĩnh vực hoạt động nhất định, nhằm cố kết cộng đồng trong quá trình tồn tại và phát triển, hình thành hệ thống thiết chế văn hóa của các cộng đồng cư dân trên một đơn vị lãnh thổ, cộng đồng tín hữu theo tín ngưỡng tôn giáo, cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng dân tộc, v.v...Theo nghĩa rộng, thiết chế văn hóa bao gồm toàn bộ các cơ chế, quy tắc, phương tiện nhằm đáp ứng nhu cầu tiện ích về đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng, bảo đảm duy trì các mối quan hệ giữa con-người-cộng-đồng với môi trường tự nhiên và xã hội. Bên cạnh đó, một số thiết chế văn hóa có quan hệ trực tiếp với đời sống xã hội trong quá trình phát triển đã có xu hướng tách rời thành các lĩnh vực thiết chế riêng rẽ như y tế, giáo dục, luật pháp, kinh tế, thương mại... đặc biệt là các thể chế chính trị với cơ cấu lập pháp, hành pháp và tư pháp, làm cho thiết chế văn hóa bị chuyên biệt hóa ở một số lĩnh vực như di sản, bảo tàng, thư viện, thông tin lưu trữ, nhà hát, rạp chiếu bóng, các loại hình kiến trúc, nghệ thuật, v.v.... Song điều này không phá vỡ cấu trúc hệ thống mang tính toàn cục của thiết chế văn hóa và sự liên kết vận hành các thiết chế văn hóa cấu thành đời sống xã hội.
Thiết chế văn hóa gắn với một cộng đồng có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Đó có thể là một đơn vị dân cư như làng, ấp, xã hoặc thành phố, một tổ chức kinh tế nghề nghiệp, trường học, tín ngưỡng tôn giáo... Song cộng đồng không tồn tại độc lập mà bao giờ cũng quan hệ khăng khít với các cộng đồng khác, hoặc ít nhất cũng nhắm đến một đối tượng nào đó để thể hiện các hoạt động văn hóa ứng xử. Chẳng hạn, lưu dân Nam Bộ khi đến vùng đất mới thời kỳ đầu sống quần tụ với nhau thành làng để khai thác các nguồn lợi tự nhiên; quan hệ giữa các làng của người Việt là một thể thống nhất với cộng đồng quốc gia Việt Nam, nhờ đó xác lập địa vị chủ thể văn hóa của người Việt.
Thiết chế văn hóa được tổ chức, vận hành trong cộng đồng để bảo đảm phát triển đời sống vật chất, tinh thần của các thành viên trong cộng đồng ấy và trong mối quan hệ với toàn thể xã hội. Quan hệ giữa cộng đồng và xã hội là thống nhất, trong đó xã hội không làm thay vai trò của cộng đồng và cộng đồng cũng không đi chệch ra ngoài quỹ đạo phát triển của xã hội. Từ đó có thể khái quát các chức năng của thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội như sau :
1- Chức năng bảo tồn (conservation): gìn giữ các giá trị vật chất và tinh thần là thành quả sáng tạo trong quá trình phát triển xã hội như di sản, kiến trúc, lưu trữ thông tin...
2- Chức năng truyền thông (communication): chuyển giao tri thức và các giá trị từ đời này sang đời khác, bảo đảm tính kế tục lịch sử. Chức năng này còn bao gồm việc hướng dẫn tổ chức các hoạt động (animation) hoặc căn cơ hơn thông qua các hình thức đào tạo (formation).
3- Chức năng sản xuất sáng tạo (création): đòi hỏi thiết lập, trang bị các phương tiện, điều kiện cơ sở vật chất để cộng đồng sáng tạo ra đời sống văn hóa của chính họ, bảo đảm xã hội phát triển.
4- Chức năng tiêu dùng (consommation): nhằm thỏa mãn các nhu cầu tiêu dùng về vật chất và tinh thần, có năng lực hưởng dụng các tiện ích văn minh, các giá trị thẩm mỹ trong đời sống xã hội.
Các chức năng của thiết chế văn hóa bao trùm lên mọi phương diện của đời sống xã hội, song không phải vì thế mà mỗi thiết chế văn hóa đều phải bao hàm toàn bộ các chức năng kể trên. Tùy theo các điều kiện lịch sử, môi trường, hoàn cảnh địa lý, tài nguyên, các đặc điểm kinh tế, dân số, kể cả các thiết chế văn hóa còn tồn tại trước đó trên địa bàn để xác lập các mô hình và các hoạt động thiết chế văn hóa thích hợp, hình thành hệ thống các thiết chế văn hóa.
Kinh nghiệm chỉ ra rằng, có thể làm mới thiết chế văn hóa dựa trên cái cũ, không nhất thiết phải phá bỏ tất cả để xây dựng cái mới[1]. Tuy nhiên, không loại trừ khả năng cái mới thay thế cái cũ hoặc khả năng tiếp cận mô hình thiết chế văn hóa mới. Có thể hình dung thiết chế văn hóa như các mũi tên, trong đó văn hóa là cây cung của cộng đồng được con người sử dụng ngày càng thuần thục nhắm vào các đối tượng tự nhiên và xã hội để thu hoạch các thành quả sáng tạo nên môi trường đời sống xã hội.
Ngoài ra, cho đến nay còn có quan điểm chưa rõ ràng về việc xác lập vai trò và chức năng quản lý của Nhà nước hay cộng đồng trong việc xây dựng các hoạt động thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội. Ở Pháp, đã diễn ra quá trình chuyển hóa trên thực tế chức năng quản lý hoạt động thiết chế văn hóa từ giáo quyền sang thế quyền, tiếp theo là quá trình giải tập trung hóa (décentralisation) từ trung ương giao về cho các tổ chức hội đoàn ở địa phương, trong đó Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ kinh phí, đào tạo nhân sự chính quy và tham gia tổ chức hoạt động.
Quá trình "xã hội hóa" các hoạt động thiết chế văn hóa ở nước ta hiện nay không giản đơn là cuộc vận động "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Thực chất của quá trình này nhằm xác lập vai trò tự quản của các cộng đồng, để cho cộng đồng có đủ khả năng tự tổ chức, vận hành và trang bị các thiết chế văn hóa để tự mình hoàn thiện, phát triển đa dạng các phương diện hoạt động trong đời sống xã hội. Nhà nước có thể tùy lúc tùy nơi đóng vai trò "bao sân" tổ chức xây dựng một số các thiết chế văn hóa trong quá trình đô thị hóa, song không phải vì thế mà "bao cấp" hoàn toàn trong xây dựng, tổ chức và quản lý các hoạt động thiết chế văn hóa.
Trong quá trình đô thị hóa, một khi môi trường sống của cộng đồng thay đổi, thiết chế văn hóa cũng phải chuyển biến cho phù hợp bằng cách mở rộng các phạm vi, đa dạng hóa các loại hình, xây dựng các mô hình theo yêu cầu phát triển của đời sống xã hội. Chẳng hạn, các thiết chế văn hóa cổ truyền từng có tác động tích cực trong đời sống xã hội, song không hẳn vì thế mà bảo lưu vĩnh cửu các giá trị được coi là truyền thống, vượt ra ngoài các giới hạn không gian và thời gian. Thiết chế văn hóa cổ truyền có khả năng bị suy yếu, biến chất hoặc hoán dị để tương thích với các yêu cầu mới của xã hội.
Tuy nhiên, khác với quá trình tiêu vong của lịch sử, chức năng bảo tồn các giá trị di sản của thiết chế văn hóa sẽ làm chúng tiếp tục tồn sinh, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa của cộng đồng. Có thể nhận thấy hiện tượng này thông qua các dạng thức lễ hội, tôn giáo, phong tục, tín ngưỡng dân gian... Ở đó thiết chế văn hóa của cộng đồng gửi gắm các biểu hiện kết hợp hiệp nhất. Không còn khoảng cách giữa phàm và thiêng, giữa hiện thực và phi hiện thực và tất nhiên không có khoảng cách không gian và thời gian. Đó là nơi có thể mang đến cho con người những thời khắc thoát tục, thoát ly thực tại, hướng đến các giá trị toàn vẹn mang tính chân - thiện - mỹ. Mặt khác, các thiết chế văn hóa được coi là hiện đại du nhập vào đời sống cộng đồng cũng đòi hỏi phải có quá trình tương thích với các hoạt động thiết chế văn hóa truyền thống, hoàn toàn không thể áp đặt mà phải tuân thủ trước hết nguyên tắc được cộng đồng chấp nhận, tiêu dùng và có khả năng sáng tạo văn hóa. Đó là khía cạnh tích cực mang giá trị động thái của thiết chế văn hóa cộng đồng trong đời sống xã hội.
Các hoạt động thiết chế văn hóa biến thiên theo trục tung (không gian văn hóa) và trục hoành (thời gian văn hóa), ở đó quan hệ biện chứng của hệ thống các thiết chế văn hóa bảo đảm các yêu cầu tiêu dùng và sáng tạo văn hóa trong môi trường đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển, nhu cầu tiêu dùng văn hóa càng cao thì các hoạt động thiết chế văn hóa sẽ ngày càng phong phú. Nói cách khác, thiết chế văn hóa bảo đảm các nhu cầu tiêu dùng và sáng tạo văn hóa, làm cho xã hội không ngừng phát triển.
Thiết chế văn hóa còn là công cụ (outils), tác nhân tạo nên hệ thống chuyển động dây chuyền, làm cho môi trường đời sống xã hội biến đổi theo chiều hướng tích cực. Trong điều kiện xã hội đô thị, Nhà nước thể hiện vai trò quản lý các thiết chế văn hóa của cộng đồng bằng cách ban hành và thực thi các chính sách văn hóa tùy theo yêu cầu phát triển của xã hội. Chính sách văn hóa là sự can thiệp của Nhà nước nhằm điều tiết quan hệ giữa sản xuất văn hóa và tiêu dùng văn hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính sách văn hóa bao gồm khả năng hỗ trợ các phương tiện vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và tài chính, các cơ chế tổ chức vận động nhằm phát huy khả năng sáng tạo các sản phẩm văn hóa của cộng đồng.
Mặt khác, thiết chế văn hóa tồn tại ở dạng vật thể hoặc phi vật thể đều biểu hiện ở tính động. Tính chất này đòi hỏi sự vận hành các hoạt động thiết chế văn hóa phải liên thông với cộng đồng và đời sống xã hội. Tuy nhiên, người ta thường chỉ quan tâm khía cạnh tĩnh, gắn với nơi lưu giữ, bảo tồn, quản lý các giá trị lịch sử của di sản, di tích[2], mà chưa coi trọng đầy đủ yếu tố trung gian (média) của các hoạt động thiết chế văn hóa có khả năng tác động trực tiếp lên đời sống văn hóa của toàn thể xã hội. Có khuynh hướng bó hẹp thiết chế văn hóa trên từng lĩnh vực hoạt động riêng rẽ của đời sống tinh thần hoặc xã hội, làm mất ý nghĩa liên kết trên phạm vi toàn cục, xem nhẹ các điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị của thiết chế văn hóa. Cũng có khi người ta gán ghép chức năng thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội là các chuẩn mực đạo đức, ý nghĩa đạo lý, rồi quy kết coi đó là nguyên nhân gây nên lối sống tiêu cực của một nhóm đối tượng, bất kể cấu trúc toàn vẹn, bao quát toàn bộ đời sống văn hóa của thiết chế văn hóa dành cho mọi thành viên trong xã hội.
Do đó, để các hoạt động thiết chế văn hóa thực hiện chức năng "công cụ" trong đời sống xã hội, theo chúng tôi, cần đổi mới hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở theo ba yêu cầu sau:
1. Về hình thức: cần chuyển đổi từ cơ chế cấp phát sang hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị tiện ích cho hệ thống các thiết chế văn hóa trên địa bàn;
2. Về đối tượng và mục tiêu: cần xác định đối tượng thụ hưởng các thiết chế văn hóa không tập trung ở "Nhà nước lớn" mà đó là các tổ chức cộng đồng, nhằm thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần đa dạng và ngày càng phong phú của họ;
3. Về tổ chức: cần hình thành hệ thống thiết chế văn hóa gồm nhiều mạng lưới ở các cấp độ khác nhau, tạo điều kiện tổ chức các hoạt động thiết thực.
Có thể nêu lên mặt hạn chế, chẳng hạn, của phong trào xây dựng ấp văn hóa, khu phố văn hóa thời gian qua là ôm đồm các hoạt động thiết chế văn hóa trong phạm vi từng ấp, khu phố vốn rất khó xác định các lằn ranh phân chia địa giới, không đủ lực để bao quát toàn bộ các mô hình thiết chế văn hóa, cũng như không đủ sức để phát huy vai trò tự quản theo cơ chế làng xã trước đây, và do đó không thể hiện trọn vẹn chức năng "công cụ" phát triển đời sống văn hóa - xã hội của các cộng đồng cư dân trên phạm vi lãnh thổ (collectivités territoires). Vấn đề này phải chăng sẽ được khắc phục khi triển khai mô hình phường, xã, thị trấn văn hóa gắn bó hơn với hệ thống các thiết chế văn hóa ở cơ sở[3] của các cộng đồng dân cư.
2- Các hoạt động thiết chế văn hóa trong quá trình đô thị hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có những chuyển biến nhất định tương ứng với những tác động ở các thời kỳ lịch sử khác nhau. Nhìn chung, có thể khái quát thành ba thời kỳ với các đặc điểm như sau.
- Thời kỳ khẩn hoang lập ấp (1698 - 1858). Sự kiện Nhà Nguyễn thiết lập chế độ cai trị hành chính kể từ năm 1698 có thể coi là cột mốc xây dựng thiết chế văn hóa của những lưu dân người Việt đến lập nghiệp tại vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ. Những lưu dân tiên phong người Việt đã trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt, đổ biết bao mồ hôi công sức, đặc biệt là đã cùng với cư dân tại chỗ và các thành phần lưu dân khác tiến hành "khai hoang", biến vùng đất dữ hoang sơ, cọp rắn rậm rịt thành ruộng vườn trù phú "thẳng cánh cò bay"[4].
Các hoạt động thiết chế văn hóa của cư dân người Việt thời kỳ này ở Sài Gòn và Nam Bộ, nói theo nhà văn Sơn Nam, là "lập làng" và "dựng đình". Làng Nam Bộ phỏng theo mô hình cư trú của người Việt nơi quê cha đất tổ, biểu hiện truyền thống nông nghiệp lâu đời, tạo nên sắc thái độc đáo về loại hình cư trú "nhất cận giang, nhì cận lộ" khác với phum, sóc của cư dân người Khơme tại chỗ. Nếu như làng xã là cấu trúc xã hội hạ tầng thì ngôi đình là thiết chế độc đáo theo truyền thống ở làng của người Việt để cố kết cộng đồng. Đình Nam Bộ là nơi thờ thần thành hoàng bổn cảnh, vị thần "quản lý" đất đai trong phạm vi làng xã. Đó là tác nhân thuộc về đời sống tinh thần của cộng đồng người Việt dưới dạng thức tín ngưỡng dân gian. Sự thể hiện lòng thành kính đối với thần linh ngoài ý nghĩa cầu mong sự ban phước còn là phương thức tác động tích cực bằng năng lực tâm linh (animi culture) của cư dân nông nghiệp (agri culture), dàn xếp sự giao thuận của trời đất để con người đắc lợi hưởng lộc.
Đình Nam Bộ còn được ví như "tiểu triều đình", nơi diễn ra các nghi thức lễ tế theo nguyên bản ở kinh thành, thể hiện ước nguyện nên một với truyền thống văn hóa dân tộc. Các sắc phong của triều Nguyễn được trân quý vì đó là dấu chỉ kết hợp phàm - thiêng, loại vật chứng lưu dấu vĩnh cửu công lao sáng tạo của tiền nhân (tiền hiền, hậu hiền), biểu hiệu chủ quyền của quốc gia dân tộc. Nói như nhà văn Sơn Nam, “Có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ. Bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, một dạng lưu dân tập thể”.
Tuy nhiên, thiết chế văn hóa lập làng - dựng đình chỉ mới tạo nên thế ổn định khép kín trong cộng đồng người Việt, chưa tạo nên quan hệ tương tác giao lưu văn hóa với các cộng đồng cư dân địa phương. Do đó, trong thời kỳ "khai hoang, lập ấp" này, họp chợ tạo nên mối quan hệ trao đổi bình đẳng là mô hình thứ ba rất quan trọng của hoạt động xây dựng thiết chế văn hóa ở vùng đất Sài Gòn và Nam Bộ. Hình thức họp chợ độc đáo ở vùng này là gắn bó với sông nước, phát triển mạng lưới giao thông đường thủy "trên bến dưới thuyền", kể cả họp chợ trên sông như chợ nổi Cái Răng - Phong Điền (Cần Thơ). Hoạt động họp chợ góp phần tạo nên từ rất sớm hiện tượng hỗn dung văn hóa giữa các cộng đồng cư dân, đặc biệt trong ngôn ngữ giao tiếp và sinh hoạt kinh tế... hình thành các sắc thái văn hóa đặc thù, liên kết họ với nhau thành một khối thống nhất trong quá trình đô thị hóa.
- Thời kỳ "khai hóa" của chủ nghĩa thực dân cũ và mới (1858 - 1975). Sự kiện xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc vào nước ta kể từ nửa cuối thế kỷ XIX không phải là cột mốc du nhập nền văn minh phương Tây. Quan điểm song trùng sẽ làm giảm nhẹ ý nghĩa cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc, "hợp thức hóa" cuộc chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc dưới chiêu bài "khai hóa" văn minh. Các yêu cầu chuyển tiếp hình thái kinh tế - xã hội từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp dựa trên tiền đề phát triển giao thông đường biển và các hoạt động thương mại kể từ thế kỷ XV trên phạm vi toàn thế giới đã làm thay đổi cục diện thiết chế văn hóa tồn tại hàng nghìn năm ở thời kỳ này. Có thể nêu ra ba tác nhân chính:
1. Yêu cầu kinh tế mở rộng thị trường, phát triển quan hệ kinh tế hàng hóa TBCN, trong đó thành thị trở thành hạt nhân của khu vực kinh tế thứ ba, đóng vai trò trung tâm giao dịch thương mại của khu vực và quốc tế.
2. Yêu cầu văn hóa mở rộng các quan hệ giao lưu, tiếp biến các thành tựu văn minh từ bên ngoài; với các mối quan hệ dựa trên sự xuất hiện các thành phần thương nhân và thợ thủ công tập trung ở thành thị.
3. Yêu cầu chính trị - xã hội đòi hỏi mở rộng các mối quan hệ, triển khai trên các lĩnh vực và địa bàn khác nhau, với các cộng đồng lãnh thổ, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, v.v… thay thế các thiết chế văn hóa khép kín, cục bộ trong phạm vi hẹp của làng xã.
Tuy nhiên, do tham vọng của chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh tàn bạo, các thiết chế văn hóa tương ứng với nền văn minh công nghiệp cơ khí, thương mại tư bản chủ nghĩa không thực sự phổ biến, mà trở thành "công cụ" bóc lột, chế độ nô lệ kiểu mới với quan hệ bất bình đẳng giữa các dân tộc, khiến cho đa số các dân tộc cùng với thành phần giai cấp vô sản của thời đại vốn là nạn nhân bị áp bức "dị ứng" với các thành quả và xu hướng tiến bộ của nền văn minh ấy.
Kể từ năm 1858, thực dân Pháp khai mào cuộc chiến tranh, đặt nước ta dưới chế độ cai trị thuộc địa và nửa phong kiến, thực chất là áp đặt mô hình chiếm hữu nô lệ kiểu mới đối với một quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, chế độ cai trị thực dân, đế quốc kéo dài hàng trăm năm về cơ bản không làm thay đổi cấu trúc thiết chế văn hóa làng xã ở nước ta. Các hoạt động thiết chế văn hóa mới tập trung chủ yếu ở khu vực đô thị trung tâm, dành riêng cho giới thượng lưu. Theo niên giám năm 1865, chỉ tính riêng ở Sài Gòn trước khi thực dân Pháp đến cai trị có khoảng 50.000 dân, phân bố trong hơn 40 làng; đến khi thành lập hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn thì giữa hai thành phố vẫn còn một số làng nông thôn[5]. Các đô thị ra đời ở thời kỳ này không do sự phát triển của quá trình đô thị hóa mà chủ yếu phục vụ quyền lợi của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Thực vậy, thành phố Sài Gòn hồi ấy chỉ bằng 1/4 dân số so với Chợ Lớn lại được coi là thành phố lớn (loại I), do Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ngày 08-01-1877; trong khi Chợ Lớn có dân cư nhiều hơn gấp ba lần lại được xếp là thành phố loại II[6], do thống đốc Nam Kỳ ra nghị định thành lập ngày 20-10-1879.
Bảng so sánh các thành phần dân cư (tính đến năm 1881) giữa Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn
Thành phần dân cư |
Thành phố Sài Gòn |
Thành phố Chợ Lớn |
||
Số dân |
Tỷ lệ % |
Số dân |
Tỷ lệ % |
|
Tổng số |
13.482 |
25,24% |
39.925 |
74,76% |
Người bản xứ |
11.847 |
87,87% |
39.723 |
99,50% |
- Người Việt |
6.246 |
52,72% |
20.677 |
52,05% |
- Người Hoa |
5.595 |
47,23% |
19.046 |
47,95% |
- Người Khmer |
6 |
0,05% |
|
|
Người nước ngoài |
1.635 |
12,13% |
202 |
0,50% |
- Người Pháp |
1.047 |
76,88% |
10 |
4,95% |
- Người quốc tịch Pháp |
210 |
|
||
- Người Chà Và |
|
|
94 |
46,53% |
- Người Ấn |
161 |
9,85% |
83 |
41,09% |
- Người Mã Lai |
135 |
8,26% |
13 |
6,43% |
- Người Tagall |
17 |
1,04% |
2 |
1,00% |
- Người Anh |
17 |
1,04% |
|
|
- Người Bồ Đào Nha |
12 |
0,73% |
|
|
- Người Đức |
12 |
0,73% |
|
|
- Người Băng gal |
11 |
0,67% |
|
|
- Người Thụy Sĩ |
4 |
0,25% |
|
|
- Người Hà Lan |
3 |
0,19% |
|
|
- Người Tây Ban Nha |
2 |
0,12% |
|
|
- Người Ý |
2 |
0,12% |
|
|
- Người Nhật |
2 |
0,12% |
|
|
Như vậy, thành phố Sài Gòn lúc đầu được thành lập chủ yếu dành cho các giới chức người Pháp, ngoại kiều và một thiểu số tầng lớp tây học bản xứ có quốc tịch Pháp. Việc du nhập một số thiết chế văn hóa mới theo khuôn mẫu phương Tây ở thời kỳ này, mặc dù có làm biến đổi diện mạo văn hóa đô thị, song không nên ngộ nhận coi đó là sự "khai hóa" của chủ nghĩa thực dân. Các thiết chế văn hóa này mới lạ về loại hình, song chưa phải là mô hình phổ biến dành cho các tầng lớp cư dân người bản xứ, không thực sự đáp ứng các nhu cầu của họ trong đời sống xã hội. Có thể kể ra một số thiết chế văn hóa mới xuất hiện ở thời kỳ này như báo chí, thư viện, bảo tàng, nhà hát, tiệm ảnh, rạp chiếu bóng, sở thú, v.v...
Cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân mới kể từ giữa thế kỷ XX đã gây nên hiện tượng dân cư tập trung về thành thị. Nhiều vùng nông thôn bị biến thành khu trù mật, ấp chiến lược do chủ trương dồn dân, cô lập kháng chiến của chính quyền Sài Gòn. Khung cảnh hỗn loạn, chết chóc bao trùm toàn miền Nam. Mặc dù vậy, các thiết chế văn hóa xuất hiện ở thời kỳ này tại Sài Gòn đã đạt đến quy mô đáng kể. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như việc đổi tên đường đồng loạt từ năm 1954 đến 1972; làm mới cầu đường, xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa (1957-1960), xa lộ vành đai Đại Hàn (1961-1962); hình thành các bến xe và hệ thống xe buýt công cộng nội ngoại thành, thay thế các xe thổ mộ, xe trâu bò bằng xe Lambretta, Daihatsu; xây dựng Thư viện quốc gia, dinh Độc lập, các khu nhà biệt thự, khu giãn dân... cùng với một số công trình trước đó của thực dân Pháp như Sở thú, Nhà thờ Đức Bà, bảo tàng, quy hoạch đô thị... đã làm cho thành phố Sài Gòn bước đầu "thay da đổi thịt".
Trong khi đó, hệ thống thiết chế văn hóa ở thời kỳ này đã diễn ra cuộc đấu tranh âm thầm hoặc quyết liệt, qua đó thể hiện bản lĩnh và ý thức dân tộc của người dân Sài Gòn. Có thể kể ra đó là cuộc vận động bảo tồn nếp sống gia phong chống lại lối sống hưởng thụ, buông thả kiểu Mỹ; phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức như các hoạt động phản chiến, đấu tranh chống Mỹ của sinh viên học sinh, đấu tranh tôn giáo của Phật tử; đấu tranh của các nghiệp đoàn, báo chí... Kết quả đã có một số thành quả bước đầu xây dựng thiết chế văn hóa như ổn định hệ thống giáo dục với nhiều loại trường lớp, tổ chức các hoạt động cứu trợ xã hội nhân đạo, chăm sóc y tế, thể dục thể thao, v.v... Ngoài ra, hệ thống thiết chế làng xã với các khóm, ấp ở nông thôn vẫn duy trì ngay sát nách thành phố Sài Gòn (tỉnh Gia Định), có thể coi đây là thành trì của chủ nghĩa yêu nước "bám đất, bám làng", tạo nên thế bao vây chiến lược.
Nhìn chung, cho đến ngày hòa bình, thống nhất đất nước 30-4-1975, thành phố Sài Gòn dù được mệnh danh là "hòn ngọc Viễn Đông", song đó là trung tâm cai trị hành chính của chính quyền tay sai thực dân Pháp, đầu não bộ máy chiến tranh của Mỹ ngụy. Thiết chế văn hóa ở thời kỳ này, từ chế độ thực dân cũ sang chế độ thực dân mới, bước đầu xây dựng theo mô hình văn minh phương Tây. Đã xuất hiện những công trình mang dáng dấp của đô thị hiện đại, tập trung ở các khu vực trung tâm. Tuy nhiên, không khí chiến tranh bao trùm; các dòng người di cư liên tục đổ về Thành phố lánh nạn và tìm kế mưu sinh; người dân có tâm lý bất an, đời sống tạm bợ, đầy dẫy bất trắc. Trong tình hình này, thiết chế văn hóa chủ yếu dành cho các tầng lớp thống trị, xây dựng ở tầng vĩ mô nhằm phục vụ cho các mục tiêu đế quốc hoặc mị dân hơn là dành cho quảng đại quần chúng ở đô thị.
- Thời kỳ "xã hội hóa" các hoạt động thiết chế văn hóa (từ 1975 đến nay). Từ sau năm 1975, Thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua các thời kỳ "xã hội hóa" các hoạt động thiết chế văn hóa, do Nhà nước tổ chức và quản lý. Có thể phân kỳ thành hai giai đoạn sau :
+ 1975 - 1990 : là thời kỳ xã hội bất động do Nhà nước quản lý theo cơ chế bao cấp toàn diện, ảnh hưởng mô hình "trại lính" ở thời kỳ chiến tranh. Chức năng Nhà nước bị quan niệm sai lầm là "bà đỡ" của xã hội, cho nên về nguyên tắc Nhà nước tập trung quản lý mọi hoạt động thiết chế văn hóa. Các hoạt động thiết chế văn hóa của các tổ chức cộng đồng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế... đều bị bãi bỏ để tập trung vào Nhà nước, cùng với mô hình Hợp tác xã vận hành theo cơ chế úp chụp, có tính áp đặt từ trên xuống.
Tuy vậy, nhìn chung đây là mô hình "xã hội hóa" cao nhất, theo quan niệm bình đẳng máy móc, cơ chế tập quyền tập lợi về đầu mối trung ương để "cấp phát" lại cho toàn xã hội. Mọi nhu cầu về đời sống văn hóa đều theo chỉ tiêu, kế hoạch của Nhà nước, phân phối mức độ hưởng thụ theo chế độ bình quân. Các hoạt động thiết chế văn hóa ở thời kỳ này mặc dù được phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, song theo kiểu "chia đều", xẻ nhỏ, phân tán.
Thực ra, hệ thống thiết chế văn hóa ở thời kỳ này là phiên bản của thể chế chính trị. Thiết chế văn hóa được coi là cơ phận vận hành trong guồng máy hoạt động Nhà nước, được nuôi dưỡng, cung cấp và ban phát cho người dân “thụ hưởng” hơn là để cho họ thủ đắc các phương tiện công cụ hoặc có cơ chế linh hoạt làm trung gian cho các hoạt đông sáng tạo, tái sản xuất ra sản phẩm văn hóa. Các mô hình hoạt động thiết chế văn hóa được tổ chức theo kiểu "có sẵn" ở kiến trúc thượng tầng để từ đó cấp phát chia đều cho người dân, hơn là đáp ứng các nhu cầu đa dạng của họ trong đời sống cộng đồng. Thiết chế văn hóa đuợc vận hành theo quy trình khép kín để tái sản xuất ra sản phẩm xã hội(?) hơn là đa dạng hóa, đáp ứng theo nhu cầu của các đối tượng, thành phần khác nhau trong xã hội.
+ 1991 - 2005 : sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) và kể từ Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) trở đi là thời kỳ "đổi mới" về kinh tế - xã hội, với đặc điểm xã hội vận hành theo đúng quy luật cung - cầu của thị trường.
Thiết chế văn hóa rộng khắp nhất ở thời kỳ này là cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", xuất hiện các ấp văn hóa và khu phố văn hóa trên toàn Thành phố. Nhiều Nhà văn hóa, Trung tâm sinh hoạt văn hóa, TDTT được tiến hành xây dựng. Các tụ điểm vui chơi, giải trí, công viên, du lịch... được chú ý bên cạnh các hoạt động nâng cao dân trí, ổn định trật tự xã hội, phát triển các loại hình kinh doanh, dịch vụ theo hướng "xã hội hóa", đáp ứng nhu cầu xã hội ngày càng văn minh, hiện đại.
Tuy nhiên, ở thời kỳ này, thiết chế văn hóa vẫn chưa vận hành theo quy luật cung - cầu mở rộng thị trường trong quá trình đô thị hóa, mà chủ yếu là đẩy mạnh các hoạt động quản lý vi mô của Nhà nước xuống tận cơ sở. Các ấp văn hóa, khu phố văn hóa được xây dựng theo các tiêu chuẩn quy ước, hàng năm đều phải có sự kiểm tra, đánh giá của các cơ quan Nhà nước để được công nhận danh hiệu(?). Trong khi đó, các nhu cầu đa dạng khác trong đời sống văn hóa tiếp tục bị thả nổi, hoặc lồng ghép ở các mức độ khác nhau với các hoạt động phong trào tại địa phương. Ngoài ra, trước hiện tượng bùng nổ dân số ở thành thị, dân nhập cư tràn lan thì Nhà nước hầu như buông xuôi, thiếu biện pháp tổ chức quản lý thích hợp, hoặc dùng biện pháp hành chánh - kinh tế đơn thuần để đối phó trước các vấn nạn của quá trình đô thị hóa.
Gần đây, yêu cầu "xã hội hóa" các hoạt động thiết chế văn hóa được định hình rõ nét hơn. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, trên địa bàn dân cư ở các quận, huyện, bên cạnh các thiết chế văn hóa do Nhà nước xây dựng và tổ chức quản lý như các Nhà văn hóa, Trung tâm sinh hoạt văn hóa, TDTT, thanh thiếu niên, sinh viên, phụ nữ... đã xuất hiện ngày càng nhều nhân tố "xã hội hóa" phát xuất từ nhu cầu đời sống văn hóa của người dân như mô hình các nhà sách tư nhân, rạp chiếu bóng, đoàn làm phim, nghệ thuật sân khấu, dịch vụ du lịch, cưới hỏi, điểm sáng văn hóa, v.v.... Có thể coi đây là dấu hiệu báo trước đã đến lúc "đổi mới" các loại hình thiết chế văn hóa còn "cái đuôi" bao cấp kém hiệu quả; thực hiện chức năng quản lý Nhà nước một cách linh hoạt theo tinh thần "xã hội hóa" đối với hệ thống các thiết chế văn hóa của các cộng đồng cư dân.
3- Trong đời sống xã hội, thiết chế văn hóa biểu hiện chủ yếu ở dạng các di sản vật chất và đời sống tinh thần. Cơ sở tồn tại của thiết chế văn hóa gắn với phương thức sản xuất, phù hợp với các thời kỳ phát triển văn minh. Sự thay đổi cơ chế vận động xã hội về mặt chính trị không làm đảo lộn các hoạt động thiết chế văn hóa, vì xã hội phát triển dựa trên nền tảng kế thừa các giá trị văn hóa và sáng tạo, hưởng dụng các thành quả văn minh của các quá trình đô thị hóa.
Kể từ sau năm 1975, các hoạt động thiết chế văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh vừa có mặt tích cực do chủ trương "phổ cập" trên diện rộng xưống các địa bàn, vừa có không ít bất cập do tập trung về một đầu mối Nhà nước quản lý theo cơ chế hành chính quan liêu bao cấp(!). Sự vận hành các thiết chế văn hóa có nhiều khác biệt so với các thời kỳ trước đó như sau:
(1) Do các biến động trong đời sống chính trị, kinh tế và xã hội, thiết chế văn hóa cần có thêm nhiều phương tiện đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp cư dân tập trung đông đảo ở thành thị, kể cả cần thực thi các chính sách văn hóa tái lập sự cân bằng trong đời sống xã hội để phát triển.
(2) Thiết chế văn hóa đòi hỏi cấu trúc lại đời sống xã hội theo hướng đại chúng hóa, phù hợp với các yêu cầu của thể chế chính trị, bảo đảm xây dựng môi trường văn hóa mới cho cư dân ở thành thị.
(3) Nhà nước được quan niệm có nhiệm vụ tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động thiết chế văn hóa, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa (khác với các phúc lợi xã hội) của người dân. Tuy nhiên, do xuất phát từ một đầu mối, thực hiện theo cơ chế tập trung bao cấp từ trên xuống, nên các hoạt động thiết chế văn hóa mang tính cấp phát, dàn đều. Một số hoạt động thiết chế văn hóa vận động dưới hình thức phong trào, thiếu ổn định, không có định hướng quy hoạch và phát triển đô thị đi kèm, kể cả không đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa đa dạng của các cộng đồng trong xã hội.
(4) Kể từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX trở đi, chính sách "đổi mới" đã làm xuất hiện các dấu hiệu giải trung ương hóa quyền lực Nhà nước (décentralisation) thực hiện chủ trương "xã hội hóa", đầu tiên ở các hoạt động kinh tế. Các mô hình “xã hội hóa” đòi hỏi thay đổi cả về phương thức và đối tượng quản lý, trả lại cho cộng đồng xã hội vai trò tổ chức vận hành các thiết chế văn hóa, không phải do các yêu cầu chỉ đạo từ trên xuống mà xuất phát từ nhu cầu và thực tiễn của đời sống xã hội tại địa phương.
Sau ba mươi năm (1975-2005), việc tổ chức và quản lý các hoạt động thiết chế văn hóa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, yêu cầu đổi mới và hội nhập đòi hỏi thiết chế văn hóa phải có những chuyển hướng tương ứng về mặt xã hội, phù hợp với sự phát triển về kinh tế, đáp ứng theo các tiêu chuẩn của văn minh đô thị. Việc chậm đổi mới các hoạt động quản lý Nhà nước về thiết chế văn hóa đã dẫn đến hai thái cực: cực đoan, sử dụng các biện pháp hành chính, quan liêu, mệnh lệnh, thậm chí cấm đoán đối với các thiết chế văn hóa "ngoài luồng" hoặc không quản lý nỗi; hoặc buông xuôi, buông lỏng quản lý, tự hạn chế trong một số lĩnh vực hoạt động, thực chất là làm được chăng hay chớ, vì không đủ sức hoặc thiếu phương tiện để tổ chức quản lý, làm cho các hoạt động thiết chế văn hóa ngày càng phiến diện, không bao quát đầy đủ các phương diện của đời sống xã hội.
Quản lý Nhà nước về văn hóa không có nghĩa Nhà nước quản lý toàn diện, một chiều các thiết chế văn hóa từ trên xuống, vì trong thực tế đời sống xã hội còn có nhiều hoạt động thiết chế văn hóa khác nhau. "Đổi mới" không chỉ về kinh tế mà cả về văn hóa, xã hội và chính trị. Không nên chờ cái này làm tiền đề cho cái kia, vì sẽ để lại không ít hệ lụy do quá trình phát triển tự phát. Thiết chế văn hóa, trước hết, cần được xác định là cấu trúc thuộc về cơ sở hạ tầng. Đó là các phương tiện, trang thiết bị vật chất đóng vai trò trung gian xây dựng nền tảng kiến trúc thượng tầng, tạo điều kiện cho các hoạt động sáng tạo đời sống văn hóa của người dân. Vì ngay như các thể chế chính trị vốn là kiến trúc thượng tầng cũng không tách biệt với đời sống xã hội, do yêu cầu nâng cao trình độ dân trí và ý thức cộng đồng nhằm xây dựng xã hội dân sự, một trong các tiêu chuẩn của quá trình đô thị hóa.
Cách thức tổ chức, quản lý các hoạt động thiết chế văn hóa, do đó, cũng đòi hỏi có sự thay đổi cơ bản. Không dựa trên mô hình và các tiêu chí từ trên xuống mang tính áp đặt, mà theo chiều ngược lại từ dưới lên, xây dựng các tiêu chuẩn kết hợp giữa yêu cầu quy hoạch phát triển đô thị và thực tiễn các nhu cầu đời sống văn hóa của xã hội, dựa trên các cộng đồng cư dân tại chỗ. Mặt khác, xây dựng và quản lý các thiết chế văn hóa không chỉ là vấn đề quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước theo một cơ chế thống nhất (chẳng hạn như hình thành các ban chỉ đạo…), mà tựu trung đó là tạo nên điều kiện, hỗ trợ phương tiện để người dân hưởng lợi từ các hoạt động thiết chế văn hóa, sáng tạo đời sống văn hóa ngày càng phong phú, về vật chất và tinh thần.
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn chưa thống nhất quan niệm về hệ thống thiết chế văn hóa. Theo quy ước, thiết chế văn hóa bao gồm các loại hình bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, di sản công trình kiến trúc, các loại hình nghệ thuật, v.v... để đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng của đời sống xã hội. Tuy nhiên, ở các địa bàn cơ sở, hoạt động của các mô hình này thiếu tính liên kết thành hệ thống các mạng lưới, gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, mà có xu hướng bó hẹp trong các hoạt động của ngành văn hóa thông tin, được tiếp sức bởi các phong trào và các cuộc vận động, thiếu tính ổn định của thiết chế văn hóa ở cơ sở. Sở dĩ có tình hình này vì :
(1) Các thiết chế văn hóa ở tầm vĩ mô hoặc vi mô do Nhà nước quản lý đều không bao quát toàn bộ đời sống tinh thần của các nhóm cộng đồng rất đa dạng của đời sống xã hội trong quá trình đô thị hóa. Các thiết chế văn hóa được trang bị, tổ chức hoặc vận hành sâu rộng vẫn chưa "ăn khớp", thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu đời sống tinh thần của người dân. Cho nên, việc tổ chức các hoạt động thiết chế văn hóa theo khuôn mẫu có sẵn rất dễ xơ cứng, sa vào hình thức, xa rời thực tiễn đời sống xã hội trên địa bàn.
(2) Mối quan tâm hàng đầu hiện nay của người dân chủ yếu nhắm đến sự hoàn thiện các điều kiện cơ sở hạ tầng ở đô thị và các mục tiêu dân sinh trước mắt, mang tính thực dụng, tức thời. Trong môi trường sống ở thành thị, người dân cần điều kiện sống tối thiểu và các phương tiện để "an cư lạc nghiệp". Song một số thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng trong thời gian qua như làm trụ sở, cổng chào, tổ chức sinh hoạt hội họp, gây dựng phong trào văn nghệ, đờn ca tài tử, năng khiếu, hoạt động vui chơi giải trí, TDTT, v.v... chưa thực sự gắn với các nhu cầu bức xúc của người dân.
(3) Điều kiện sống cơ cực và trình độ dân trí thấp, nhất là ở khu vực dân cư, khiến người dân thờ ơ với một số hoạt động thiết chế văn hóa, chưa coi đó là nhu cầu thiết yếu hoặc "của ăn" tinh thần của họ. Còn tồn tại suy tính tiểu nông muốn "cầu an", duy trì trật tự xã hội theo cơ chế cũ hoặc tâm lý "sùng tín" tự ru ngủ mình trong thế giới tâm linh của tín ngưỡng và tôn giáo. Ngoài ra, quan niệm coi dân trí đơn thuần là trình độ học vấn, bó hẹp trên các con số thống kê xóa mù chữ hoặc phổ cập cấp 1, cấp 2 khiến cho người thành thị thiếu năng lực làm chủ các lĩnh vực vốn dĩ là quyền lợi của họ như quyền tham gia giao thông, quyền được thông tin, quyền được khiếu nại tố tụng hành chính, quyền cư trú, học hành, làm việc, v.v...
(4) Các thiết chế văn hóa do Nhà nước tổ chức quản lý dễ bị nhầm lẫn với các thiết chế tổ chức bộ máy của chính quyền trên địa bàn. Chức năng quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước ở địa phương đang có sự nhập nhằng với chức năng quản lý kinh doanh, dịch vụ và tất nhiên kể cả chức năng quản lý văn hóa, vô hình trung tạo nên khơảng cách giữa chính quyền và người dân, hạn chế phạm vi và hiệu dụng của các hoạt động thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội.
(5) Xu hướng đồng nhất các thiết chế văn hóa ở thành thị với các hoạt động thiết chế văn hóa ở nông thôn. Việc vận dụng mô hình văn hóa làng trong quá trình đô thị hóa, biểu hiện ở phong trào xây dựng ấp, khu phố văn hóa hoặc việc quản lý chặt chẽ nhân hộ khẩu theo mô hình nông thôn nông nghiệp tưởng chừng có thể làm chậm lại chứng bệnh "to đầu" của thành thị, song trên thực tế đã làm trì trệ quá trình phát triển đô thị theo quy luật. Các quy định quản lý chặt chẽ vẫn không ngăn được quá trình đô thị hóa diễn ra một cách tự phát như hiện tượng dân nhập cư, kèm theo đó là các tệ nạn xã hội diễn ra tràn lan, làm cho không ít số phận bị trôi giạt bên lề đời sống xã hội ở thành thị hoặc không có "mảnh đất cắm dùi" thì tất nhiên càng bị hạn chế hưởng dụng các thiết chế văn hóa.
(6) Các thiết chế văn hóa chậm "thể chế hóa" về mặt quy mô, phù hợp với tính chất, yêu cầu của quá trình đô thị hóa theo hướng công nghiệp, hiện đại của Thành phố. Trong ba mươi năm, có lẽ chúng ta đã thực hiện nhiều phép chia để nhân rộng các mô hình, làm nhiều phép cộng để tập hợp thành quả của các phong trào, các cuộc vận động song hầu như còn chưa màng đến phép nhân để đầu tư xây dựng các công trình văn hóa có tầm cỡ, cải thiện bộ mặt văn hóa tương xứng với tầm vóc và quy mô phát triển của Thành phố.
Tình hình này dẫn đến hệ quả làm cho không ít hoạt động thiết chế văn hóa rơi vào chủ nghĩa hình thức, ít thực chất, kém hiệu quả, có bề nổi mà thiếu chiều sâu; một số hoạt động thiết chế văn hóa rập khuôn, mang tínn dàn đều, thiếu tập trung quy mô; hoặc ôm đồm với các hoạt động sự nghiệp trong hệ thống, quá chú trọng thành lập "trụ sở" làm cầu nối hơn là xây dựng nơi dành riêng tổ chức các hoạt động đặc thù, chuyên nghiêp đáp ứng nhu cầu hưởng dụng và sáng tạo văn hóa của các cộng đồng cư dân; hoặc có xu hướng phát triển cục bộ, khép kín, một số hoạt động thiết chế văn hóa để ngoài tầm tổ chức và quản lý của Nhà nước; một bộ phận cư dân là đối tượng lao động nhập cư không có điều kiện hội nhập với đời sống cộng đồng do thiếu quy hoạch thiết chế văn hóa gắn với các khu công nghiệp, khu chế xuất, kéo dài tình cảnh sống lây lất của họ ở Thành phố.
Căn cứ chủ trương "xã hội hóa” các hoạt động của đời sống văn hóa hiện nay, có thể nhận thấy bên cạnh các thiết chế văn hóa do Nhà nước tổ chức và quản lý, trên các địa bàn dân cư còn có nhiều hoạt động thiết chế văn hóa khác rất đa dạng. Từ thực tiễn quá trình đô thị hóa hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh, có thể phân loại các thiết chế văn hóa như sau :
1. Thiết chế văn hóa gắn với nhu cầu hưởng dụng đời sống văn hóa ngày càng hiện đại: hệ thống siêu thị, nhà sách, khu vui chơi giải trí, công viên, mạng internet, hoạt động tham quan du lịch, du học...
2. Thiết chế văn hóa gắn với nhu cầu thưởng lãm nghệ thuật, rèn luyện kỹ năng, sức khỏe… Ngoài các hình thức câu lạc bộ kỹ năng, hoạt động TDTT, còn có các loại hình như: sân khấu ca nhạc, phim truyện truyền hình, quảng cáo, biểu diễn thời trang...
3. Thiết chế văn hóa gắn với nhu cầu sinh hoạt truyền thống trong đời sống cộng đồng: tín ngưỡng, tôn giáo, quan hệ họ tộc, bang hội, dân tộc, nghề nghiệp...
4. Thiết chế văn hóa gắn với nhu cầu xây dựng ý thức cộng đồng ở các đơn vị dân cư, kinh doanh dịch vụ tổ chức kinh tế, từ thện xã hội, trường học...
Các mô hình hoạt động thiết chế văn hóa này không làm triệt tiêu vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước, mà hơn thế càng làm cho thiết chế văn hóa thêm phong phú, gần gũi, đáp ứng nhu cầu phát triển các phương diện đời sống văn hóa của xã hội.
- Dựa theo danh mục các thiết chế văn hóa được liệt kê trong công trình “Văn hóa Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX, Phụ lục Các thiết chế văn hóa” (2001), có thể phân tích các loại hình căn cứ theo 4 chức năng của thiết chế văn hóa như sau :
STT |
Chức năng |
Các loại hình TCVH |
Số lượng |
01 |
Bảo tồn |
Di tích lịch sử văn hóa; Nhà bảo tàng; Nhà truyền thống |
68 |
02 |
Truyền thông |
Thư viện |
22 |
03 |
Sáng tạo, sản xuất văn hóa |
Nhà văn hóa - Trung tâm văn hóa; Ấp văn hóa - Khu phố văn hóa |
611 |
04 |
Tiêu dùng văn hóa, thẩm mỹ |
Rạp hát, rạp chiếu bóng; Khu vui chơi - giải trí, Công viên |
21 |
Do công trình này giới hạn thiết chế văn hóa trong phạm vi "một số công trình vật chất hiện có, chủ yếu do Nhà nước tổ chức thực hiện và quản lý kể từ sau năm 1975", nên các số liệu trên đây chưa phản ánh đầy đủ các loại hình hoạt động thiết chế văn hóa. Tuy vậy, có thể nêu nhận xét: kể từ sau ngày hòa bình thống nhất (1975), Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành các bước phổ cập các hoạt động thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội. Có thể coi đây là giai đoạn mở đầu thời kỳ "xã hội hóa" các hoạt động thiết chế văn hóa trong quá trình đô thị hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuộc vận động này còn được tiếp tục kể từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX với việc triển khai đồng loạt các Trung tâm văn hóa ở các quận, huyện; hình thành Ban chỉ đạo xây dựng các ấp, khu phố văn hóa. Có thể coi đây là hai mô hình tiêu biểu từ trên xuống và từ dưới lên xây dựng các thiết chế văn hóa do Nhà nước quản lý. Các cuộc vận động quy mô này đã đạt được một số thành quả đáng chú ý, song như đã phân tích trên, chỉ nên coi đó là nỗ lực từ phía Nhà nước nhằm cơ cấu nhân sự, tái cấu trúc các địa bàn dân cư để tổ chức quản lý các hoạt động thiết chế văn hóa.
- Trong công trình “Các tổ chức và hoạt động văn hóa thông tin Thành phố Hồ Chí Minh” do Sở Văn hóa Thông tin TP. Hồ Chí Minh phát hành tháng 8-2000 đã giới thiệu các hoạt động rất đa dạng của ngành Văn hóa và Thông tin qua 25 năm xây dựng các thiết chế văn hóa. Ngoài một số hoạt động chuyên ngành có liên quan đến công tác quản lý Nhà nước của ngành VHTT như: chống văn hóa phẩm độc hại, cải cách thủ tục hành chính, xây dựng tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xây dựng tổ chức Đảng, đoàn thể, xã hội hóa các hoạt động văn hóa, v.v… có thể bổ sung thêm một số loại hình (chữ in nghiêng) theo các chức năng của thiết chế văn hóa tại Thành phố như sau:
STT |
Chức năng |
Phân loại các loại hình TCVH |
01 |
Bảo tồn |
Di tích lịch sử văn hóa; Bảo tàng; Nhà truyền thống; Lễ hội |
02 |
Truyền thông |
Thư viện; Thông tin Cổ động; Báo chí; Xuất bản; In ấn; Triển lãm; Sản xuất và kinh doanh văn hóa phẩm. Chống văn hóa phẩm độc hại |
03 |
Sáng tạo, sản xuất văn hóa |
Nhà văn hóa - Trung tâm văn hóa; Ấp văn hóa - Khu phố văn hóa; Cải cách thủ tục hành chánh; Tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng tổ chức Đảng, Đoàn thể; Xã hội hóa các hoạt động văn hóa |
04 |
Tiêu dùng văn hóa, thẩm mỹ |
Rạp hát, rạp chiếu bóng; Khu vui chơi - giải trí, Công viên; Văn nghệ quần chúng; Hoạt động nghệ thuật; Giao lưu văn hóa trong và ngoài nước |
Ngoài ra, cũng có thể kể thêm các hoạt động thiết chế văn hóa của các tổ chức, ban ngành, đoàn thể, đặc biệt là hoạt động của mạng lưới các tôn giáo, trường học, cơ sở y tế - bệnh viện, chợ - siêu thị, các đơn vị sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, v.v... trên địa bàn Thành phố. Nếu tập hợp tất cả các thiết chế văn hóa kể trên sẽ tạo nên bức tranh tổng thể rất đặc sắc về diện mạo văn hóa của Thành phố nói chung và các loại hình thiết chế văn hóa tại Thành phố nói riêng.
- Trong công trình "Chính sách văn hóa và các hội đồng thị chính" (Politiques culturelles et municipalités), tác giả Roger Beaunez đã phân loại các thiết chế văn hóa tại Pháp thành hai mảng hoạt động: các mô hình truyền thống, gồm có các di sản, bảo tàng, lưu trữ thông tin ở địa phương, phòng đọc và thư viện công, nghệ thuật tạo hình, âm nhạc, biểu diễn sân khấu, điện ảnh, phương tiện nghe-nhìn; và các mô hình mới (hiện đại) gồm có văn hóa vùng và các cộng đồng, văn hóa khoa học và kỹ thuật, truyền thông đa phương tiện mới, công cụ hỗ trợ quản lý các cơ sở sản xuất văn hóa.
Phân tích các loại hình thiết chế văn hóa theo chức năng và theo các quá trình lịch đại (horizontal) từ truyền thống đến hiện nay, có thể nhận thấy các hoạt động thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội không phải là các mô hình xơ cứng mà luôn biến đổi, thích ứng với các quá trình phát triển của xã hội. Thiết chế văn hóa với các cơ sở trang thiết bị vật chất đóng vai trò trung gian không phải giữa Nhà nước và cộng đồng, mà xét về mặt tính chất là nhằm phổ cập các sản phẩm văn hóa cho đời sống văn hóa của cộng đồng, để cộng đồng có phương tiện sản xuất và tiêu dùng văn hóa. Nhà nước không có yêu cầu phổ cập, song có thể là tác nhân trung gian hỗ trợ xây dựng một số loại hình thiết chế văn hóa mang giá trị định lượng về cơ sở vật chất.
Từ thực tiễn hoạt động thiết chế văn hóa hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh, căn cứ vào cơ chế quản lý và cách thức vận hành các thiết chế văn hóa, chúng tôi giả định tách riêng hai khu vực hoạt động của Nhà nước và cộng đồng (mặc dù trên thực tế bất cứ mô hình thiết chế văn hóa nào cũng đều có sự đan xen và hỗ trợ lẫn nhau giữa Nhà nước và cộng đồng, trong đó Nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa) tùy theo tính chất trung gian hoặc phổ cập của thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội như sau:
- Các loại hình thiết chế văn hóa do Nhà nước tổ chức quản lý.
1. Di tích lịch sử - văn hóa: gồm các di tích khảo cổ, di sản tộc người, công trình lịch sử, v.v... thực hiện 4 chức năng: nghiên cứu, bảo vệ, bảo tồn và khôi phục các di sản văn hóa.
Theo thống kê, Thành phố có 31 di tích khảo cổ, 933 ngôi chùa, 260 ngôi đình, trên 100 lăng, miếu, đền, điện, nhà thờ tổ họ và hàng trăm di tích cách mạng, trong đó có 47 di tích xếp hạng đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa. Di tích khảo cổ chủ yếu ở Cần Giờ gồm 21 di tích, khai quật được 9 di tích. Các di tích này đánh dấu bề dày văn hóa của Thành phố cách nay đến 3.500 năm, thuộc loại sớm trong các di tích khảo cổ vùng Đông Nam Bộ. Di tích lịch sử gắn với thời kỳ khẩn hoang lập ấp, gồm có các nhân vật lịch sử như ở lăng Ông Lê Văn Duyệt (quận Bình Thạnh), lăng Võ Di Nguy (quận Phú Nhuận) nguyên là các vị Tổng trấn Gia Định thành. Ngoài ra, trải qua hai cuộc kháng chiến ác liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Thành phố còn là nơi có nhiều "địa chỉ đỏ". Một số công trình kiến trúc có nhiều giá trị nghệ thuật như: chùa Giác Viên, Phụng Sơn (quận 11), Giác Lâm (quận Tân Bình)...; các ngôi đình, các loại hình nhà cổ của người Việt như kiến trúc nhà tứ tượng, nhà đâm trính hoặc nhà rường, kiểu mái "trùng thiềm điệp ốc"...; hàng trăm ngôi miếu thờ bà Ngũ Hành, Địa Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu hoặc các miếu của người Hoa như miếu Nhị Phủ, Quan Đế, Thiên Hậu; cùng với các công trình kiến trúc thời kỳ cận đại, các nhà thờ, v.v...
2. Bảo tàng và Nhà truyền thống: Trước năm 1975, Thành phố chỉ có Bảo tàng Nghệ thuật Blanchard de la Brosse (1929), tức Viện Bảo tàng Quốc gia Việt Nam (1956-1975). Sau năm 1975, hàng loạt Bảo tàng được thành lập như: Bảo tàng TP. Hồ Chí Minh, Bảo tàng Chi nhánh Hồ Chí Minh, Bảo tàng Tôn Đức Thắng, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, Bảo tàng Lực lượng Vũ trang Quân khu 7, Bảo tàng Địa chất, Bảo tàng Không quân phía Nam. Các Bảo tàng đều do Nhà nước quản lý, trong đó có 7 Bảo tàng trực thuộc Sở VHTT.
Ngoài ra, ở các quận, huyện và một số cơ quan, ban ngành đều có Nhà truyền thống, chủ yếu từ các hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động, triển lãm kể từ sau 1975 như: Nhà truyền thống quận 1 (1979), Nhà truyền thống Phú Nhuận, Tân Bình (1980), Nhà truyền thống Thủ Đức, Củ Chi, Gò Vấp (1984), Nhà truyền thống quận 3 (1985), Nhà truyền thống Thành đoàn, Nhà truyền thống Sư đoàn Phòng Không 367, v.v....
3. Thư viện: Thư viện Hội nghiên cứu Đông Dương (nay là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam) được thành lập đầu tiên ở Thành phố (1865), cùng với một số Thư viện chủ yếu dành phục vụ cho bộ máy cai trị của Pháp, đồng thời là nơi lưu trữ văn khố, tài liệu, sách tham khảo về Việt Nam và Đông Dương. Đến năm 1882, có thư viện công cộng đầu tiên là Thư viện Tư liệu Chính phủ Nam Kỳ thuộc Pháp. Năm 1927, thành lập thư viện thiếu nhi và đến năm 1936 có thư viện xe buýt tức loại hình thư viện lưu động... Cho đến trước năm 1975, Sài Gòn có 3 Thư viện công quyền, song chính quyền Sài Gòn chủ trương xây dựng một thư viện duy nhất, Thư viện Quốc gia Sài Gòn (1971, nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh) để quản lý, điều hành các hoạt động lưu trữ thông tin và thư viện.
Sau năm 1975, ngoài thư viện trung tâm của Thành phố, đã hình thành mạng lưới 22 thư viện công cộng ở 22 quận, huyện cùng với khoảng 435 phòng đọc sách ở các cơ sở phường, xã và các tủ sách của ấp, khu phố văn hóa. Ngoài ra, không thể không tính đến hệ thống Thư viện của các trường phổ thông và các trường đại học (Trường nữ trung học Gia Long - 1915), các Thư viện chuyên ngành (Khoa học Xã hội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ) và một số các thư viện khác như Thư viện Abraham Lincoln thuộc Hội Việt Nỹ (1949), Thư viện Goethe (1959) thuộc Trung tâm Văn hóa Đức, Thư viện Hội đồng Giám mục Việt Nam (1973), Thư viện Hội Văn hóa Bình dân (1954), Thư viện Viện trao đổi văn hóa với Pháp (1955) và các loại hình thư viện khác như Thư viện bằng sáng chế phát minh, Thư viện các Tiêu chuẩn, Thư viện chữ nổi, Thư viện ở các Nhà thờ, Nhà chùa hoặc của các đơn vị và tư gia.
4. Sân khấu và rạp chiếu bóng: Theo sự du nhập các hoạt động thiết chế văn hóa của văn minh phương Tây, Nhà hát Tây nay là Nhà hát Thành phố xây dựng năm 1898 và tổ chức buổi diễn đầu tiên ngày 17-01-1900; các sân khấu Thành phố có quá trình phát triển từ các sân đình, sân chùa đến xây dựng các rạp hát chuyên nghiệp như: rạp Kim Châu diễn kịch nói, rạp Quốc Thanh diễn Cải lương, rạp Minh Phụng diễn Hát Bội, rạp Hào Huê diễn tuồng Tàu... Sau năm 1975, bên cạnh Nhà hát Thành phố chuyên biểu diễn ca múa nhạc dân tộc, múa ba lê, nhạc giao hưởng thính phòng, kịch nói... còn có Nhà hát Hòa Bình (1985) với 2.330 ghế ngồi ở sân khấu lớn và 300 ghế ngồi ở sân khấu nhỏ (1995), với sân khấu quay hiện đại có đường kính 22m. Gần đây mới bắt đầu hình thành các sân khấu chuyên nghiệp như: Nhà hát Bến Thành, Sân khấu Kịch Phú Nhuận. Cũng vậy, cho đến năm 1975 Thành phố có 46 rạp chiếu bóng, với các chương trình phim chuyên biệt như rạp chuyên chiếu phim Tàu, phim Mỹ hoặc phim Việt Nam. Sau năm 1975 là thời kỳ hoàng kim của ngành chiếu bóng, đã có lúc thu hút đến 61 triệu lượt người/năm.
Tuy nhiên, sự phát triển của công nghệ truyền hình và các phương tiện nghe nhìn khác như vidéo, băng đĩa hình, cộng thêm chế độ quản lý và kiểm duyệt gắt gao đã làm cho sân khấu và điện ảnh ngày càng kén khách. Bên cạnh đó, việc Nhà nước chuyển giao và phân cấp khai thác quản lý cho các quận, huyện làm cho sân khấu không còn sáng đèn thường xuyên và rạp hát ngày càng thưa vắng khách. Mãi đến khi có chủ trương "xã hội hóa", hoạt động sân khấu và điện ảnh không bị nhốt trong các "tháp ngà" nghệ thuật mà trở thành đối tượng sáng tạo của công chúng, với nhiều "gu" cảm thụ và thưởng lãm nghệ thuật đa dạng. Ngoài ra còn phải kể đến các chương trình ca nhạc, phim truyện kết hợp quảng cáo truyền hình, các hoạt động thể dục thể thao, du lịch... là các hoạt động thiết chế văn hóa không thể thiếu được trong đời sống xã hội.
- Các loại hình thiết chế văn hóa trong đời sống cộng đồng. Đó là các mô hình hoạt động có liên quan trực tiếp hoặc gắn bó với đời sống văn hóa của cộng đồng.
1. Cuộc vận động xây dựng ấp văn hóa, khu phố văn hóa và phường, xã, thị trấn văn hóa: So với cuộc vận động vào những năm 70, 80 của thế kỷ XX đưa dân đi lập nghiệp ở các vùng kinh tế mới, thực hiện chính sách giãn dân và tăng gia sản xuất thì có thể coi đây là đợt "diễn tập" lần thứ hai, nhằm tạo nên môi trường sống ổn định lâu dài cho cư dân ở thành thị.
Theo số liệu thống kê của Sở VHTT tính đến ngày 20-4-2004, toàn Thành phố có 925/1.757 ấp, khu phố đăng ký xây dựng ấp văn hóa, khu phố văn hóa, trong đó số được công nhận ước đạt khoảng 40%. Từ tháng 10-2000 đến nay, Thành phố triển khai xây dựng phường đạt chuẩn văn hóa đầu tiên tại Phước Bình (quận 9); đến cuối năm 2004, toàn Thành phố có 65 phường, xã, thị trấn (tại 17 quận và 3 huyện) đăng ký xây dựng phường, xã đạt chuẩn văn hóa.
Cuộc vận động này đã kéo dài hàng chục năm vẫn chưa được coi là một thiết chế văn hóa ở các địa bàn dân cư. Nguyên nhân vì: một, ở tầm vĩ mô, mô hình này vận dụng thiết chế văn hóa nông thôn không thích hợp với thành thị, nơi có đặc điểm khác biệt về thành phần dân cư, nghề nghiệp, môi trường và điều kiện sinh sống; hai, ở tầm vi mô, sự can thiệp của Nhà nước thay vì đầu tư, hỗ trợ về đời sống vật chất và tinh thần thì trên thực tế đã không hoàn toàn diễn ra như vậy, mà chủ yếu công nhận đạt các danh hiệu thi đua một cách hình thức; ba, quá trình đô thị hóa sớm muộn sẽ phá vỡ cấu trúc thiết chế văn hóa truyền thống, song các tiêu chuẩn của cuộc vận động chưa gắn với các chuyển động của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chưa xác định trọng tâm xây dựng đời sống văn hóa của cộng đồng.
2. Xây dựng "hệ thống" các Nhà văn hóa: Các Nhà văn hóa, Trung tâm văn hóa được xây dựng thành hệ thống đều khắp từ quận, huyện, xuống đến các phường, xã, ấp, khu phố. Mỗi Nhà văn hóa à một thiết chế văn hóa thu nhỏ, phân tán ở nhiều cơ sở có các loại hình hoạt động khác nhau hoặc tập trung như một "trung tâm đa năng" gồm: thư viện, nhà truyền thống (bảo tàng thu nhỏ), sân khấu nghệ thuật, rạp chiếu bóng, câu lạc bộ đội nhóm, các lớp năng khiếu, v.v... Nhà văn hóa vận dụng theo mô hình đình làng hoặc nhà thờ xóm đạo, song rõ ràng không còn tương thích với môi trường xã hội đô thị với đặc điểm "mở". Theo chúng tôi, cần xác định mô hình Nhà văn hóa nhằm phục vụ đối tượng nào, có các loại hình hoạt động nào theo nhu cầu văn hóa của các cộng đồng cư dân ở các giai đoạn phát triển khác nhau; Nhà văn hóa cần liên kết hoặc hỗ trợ các mô hình thiết chế văn hóa khác trên địa bàn như các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức hội đoàn, nghề nghiệp, v.v... ; cần phát huy vị trí, vai trò của cộng đồng, dành cho mỗi đơn vị cộng đồng quyền "tự quản" và chủ động xây dựng các thiết chế văn hóa xuất phát từ các nhu cầu thực tiễn tại địa phương, có sự hỗ trợ cụ thể của Nhà nước.
3. Thiết chế văn hóa trong các tổ chức tôn giáo, hội đoàn, doanh nghiệp, các tổ chức tự nguyện hoạt động từ thiện xã hội: hiện nay Thành phố có bốn cộng đồng tôn giáo lớn gồm Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành với gần 2 triệu tín đồ, chiếm khoảng 1/3 dân số[7]:
- Phật giáo có 1.120.000 tín đồ, 5.574 tăng ni và 1.038 nơi thờ tự, hoạt động theo phương châm: “Đạo pháp – Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội”.
- Công giáo có 526.308 tín hữu, 456 linh mục, 2.851 tu sĩ nam nữ, 274 nơi thờ tự, 69 nhà dòng và 37 hội đoàn, hoạt động theo phương châm: “Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc đồng bào”, xây dựng cuộc sống “Tốt đời, đẹp đạo”.
- Đạo Cao Đài có 8 hệ phái, 53.818 tín đồ, 321 chức sắc, 1.106 chức việc, 71 thánh thất, thánh tịnh, điện thờ. Các hệ phái đều là nhánh Cao Đài của các tỉnh Tây Ninh, Bến Tre, Quảng Nam, Đà Nẵng, trong đó nhiều nhất là phái Cao Đài Tây Ninh.
- Đạo Tin Lành gồm 7 hệ phái, 29.748 tín đồ, trong đó phái Tin Lành Việt Nam đông nhất với 22.800 tín đồ. Một số hệ phái chưa được công nhận "tư cách pháp nhân" như Ngũ Tuần, Liên hữu Cơ Đốc, Giêhôva hoặc đang khôi phục thành lập phái Tin Lành mới như Mennonite, Cơ Đốc truyền giáo, Cơ Đốc cải cách, Đấng Christ, Giám lý, v.v… Tháng 2/2001, Đại hội Tổng liên hội Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đề ra phương châm: “Sống Phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc”.
Các tôn giáo này đều có các thiết chế văn hóa như: chùa, nhà thờ, thánh thất... Ngoài ra còn có khoảng 300 ngôi đình thuộc thiết chế văn hóa cổ truyền, nhiều miếu thờ, lăng mộ di tích lịch sử - văn hóa, v.v... Đây là tài sản vô giá trong đời sống tinh thần của cư dân, có những đóng góp rất đáng kể trên nhiều lĩnh vực sinh hoạt cộng đồng và đời sống xã hội, song cho đến nay vẫn chưa được chú ý phát huy vị trí, vai trò trong hệ thống thiết chế văn hóa tại các địa bàn. Ngoài ra còn có các hoạt động bang hội của người Hoa, các hội đoàn nghề nghiệp như hội doanh thương, hội luật sư, hoặc hội đồng hương, các họ tộc; các cơ sở y tế, giáo dục, kinh tế, việc làm; hệ thống chợ, siêu thị, tụ điểm kinh doanh dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp... hình thành mạng lưới thiết chế văn hóa rất đa dạng trong đời sống cộng đồng.
4. Các mô hình dịch vụ kinh doanh văn hóa, ứng dụng khoa học kỹ thuật, các phương tiện truyền thông, hoạt động du lịch, giải trí: Một số hoạt động thiết chế văn hóa do Nhà nước quản lý như kinh doanh phát hành sách, phát hành phim và chiếu bóng, thông tin... đang trở thành các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, đáp ứng theo nhu cầu thị hiếu của thị trường. Nhiều tờ báo, tạp chí chuyên đề xuất hiện ngày càng nhiều; băng đĩa, các phương tiện đáp ứng nhu cầu học tập, lao động, giải trí muôn màu muôn vẻ... Truyền hình kết hợp quảng bá thông tin với các loại hình nghệ thuật đặc sắc, trở thành cầu nối hết sức gần gũi với công chúng. Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng khác như điện thoại, internet... làm cho hoạt động của các thiết chế văn hóa mở rộng vươn ra phạm vi toàn cầu, cần có những thay đổi phương thức quản lý phù hợp.
Qua phân tích một số loại hình thiết chế văn hóa căn cứ trên tính chất trung gian và phổ cập, đồng thời giả định có sự phân biệt giữa Nhà nước và cộng đồng, chúng tôi rút ra mấy nhận xét sau:
- Một, Nhà nước tổ chức quản lý các hoạt động thiết chế văn hóa không làm thay cộng đồng, mà thực ra đó là sự can thiệp về mặt kỹ thuật (interventions techniques) nhằm tạo nên khuôn khổ pháp lý của cơ chế vận hành, bảo đảm tính liên tục từ quá khứ đến hiện tại, đồng thời tạo nên môi trường xã hội thuận lợi để cộng đồng phát triển;
- Hai, có một số loại hình thiết chế văn hóa lúc đầu do Nhà nước đứng ra tổ chức quản lý, nhưng sau đó được giao về cho cộng đồng hoặc chuyển sang các hình thức dịch vụ tư nhân do yêu cầu phổ cập của thiết chế văn hóa trong đời sống cộng đồng;
- Ba, phân tích tính chất trung gian và phổ cập của thiết chế văn hóa trong các loại hình thiết chế văn hóa, có thể nhận ra sự bất hợp lý về cơ chế tổ chức quản lý giữa Nhà nước và cộng đồng: các hoạt động nghệ thuật sân khấu và điện ảnh là thiết chế văn hóa có yêu cầu phổ cập trong đời sống cộng đồng; trong khi các Nhà văn hóa, Trung tâm văn hóa rõ ràng đóng vai trò trung gian để đưa các hoạt động văn hóa thâm nhập vào cộng đồng. Do đó, cần hoán đổi vị trí đưa loại hình sân khấu, rạp chiếu bóng do Nhà nước quản lý về lại cộng đồng để "sống" với công chúng khán giả (điều này đúng với thực tế hiện nay khi tiến hành chủ trương "xã hội hóa"). Còn các Nhà văn hóa, Trung tâm văn hóa là thiết chế văn hóa mới do Nhà nước đưa vào đời sống cộng đồng, cần trở lại đúng nguyên trạng thực hiện chức năng trung gian của thiết chế văn hóa...
Bảng phân tích các loại hình TCVH theo tính chất vận hành
và cơ chế quản lý hiện nay
Cơ chế quản lý & |
Tính chất |
Các loại hình TCVH |
|
|
- Bảo tồn di tích. - Bảo tàng, truyền thống. - Thư viện. - Trung tâm/Nhà văn hóa. |
|
|
- Ấp/khu phố văn hóa. - Tôn giáo, hội đoàn. - Phương tiện cơ sở hạ tầng. - Kinh doanh dịch vụ văn hóa (sản xuất và tiêu dùng văn hóa). |
Thiết chế văn hóa sử dụng các phương tiện, trang thiết bị vật chất làm trung gian để phổ cập các loại hình hoạt động cho cộng đồng trong quá trình dân chủ hóa văn hóa[8]. Bản thân sự tồn tại của thiết chế văn hóa không nằm trong cơ chế quản lý mà chính là ở các phương tiện trang bị cho đời sống cộng đồng. Vai trò trung gian của Nhà nước nhằm hỗ trợ cộng đồng thực hiện sự gắn kết các di sản quá khứ với hiện tại, đưa không gian văn hóa truyền thống đến hòa nhập và bảo đảm các giá trị của môi trường sống nhân văn. Tất nhiên, đó không phải là vấn đề tổ chức quản lý như thế nào mà quan trọng hơn là sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước để xây dựng đời sống văn hóa của cộng đồng trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau.
Các loại hình hoạt động thiết chế văn hóa, tựu trung lại, có thể khái quát gồm ba phương diện có mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Đó là: không gian văn hóa, môi trường văn hóa và đời sống xã hội. Tùy theo tính chất trung gian hoặc phổ cập của thiết chế văn hóa, có thể hình dung các mô hình do Nhà nước quản lý và các thiết chế văn hóa trong đời sống cộng đồng từ truyền thông đến hiện đại theo bảng sau :
Tính chất và phạm vi hoạt động của các mô hình thiết chế văn hóa
trong đời sống xã hội
Các phạm vi hoạt động |
Phân loại các mô hình TCVH |
|
Trung gian |
Phổ cập |
|
1. Không gian văn hóa |
|
|
- Truyền thống (lịch sử) |
- Bảo tồn di tích. - Nhà bảo tàng. - Nhà truyền thống. |
- Làng văn hóa. |
- Hiện đại |
- Môi trường cảnh quan, cơ sở hạ tầng |
- Ấp văn hóa, khu phố VH. - Phường văn hóa(?). |
2. Môi trường văn hóa |
|
|
- Truyền thống |
- Thư viện. |
- Tôn giáo, tổ chức đoàn thể. |
- Hiện đại |
- TV đa phương tiện. |
- Cơ sở y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội, nghề nghiệp... |
3. Đời sống văn hóa |
|
|
- Truyền thống |
- Văn hóa làng xã (ở nông thôn) |
- Hoạt động sản xuất nông nghiệp. |
- Hiện đại |
- Trung tâm văn hóa, Nhà văn hóa (ở thành thị). |
- Hoạt động kinh doanh dịch vụ sản xuất và tiêu dùng văn hóa, truyền thông, du lịch, giải trí... |
4- Yêu cầu "xã hội hóa" các hoạt động thiết chế văn hóa là đặc điểm nổi bật nhất kể từ khi nước ta giành lại độc lập tự chủ, hòa bình thống nhất. Song do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, suốt một thời gian dài trước "đổi mới" chúng ta đã quá chú trọng vai trò xây dựng và quản lý của Nhà nước. Tình hình này dẫn đến hệ quả phần nào làm tê liệt vị trí, vai trò "tự quản" của các hoạt động cộng đồng, chưa phát huy tốt năng lực "sáng tạo" của cộng đồng trong đời sống xã hội.
Hiện nay, thực hiện chủ trương "xã hội hóa" trong quá trình đổi mới theo cơ chế thị trường, các tổ chức xã hội và cộng đồng ngày càng phát huy mạnh mẽ tính năng động, tự chủ trong việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Một số thiết chế văn hóa do Nhà nước quản lý ở các quận, huyện đang có dấu hiệu chựng lại như mạng lưới thư viện, sân khấu quần chúng ở các Trung tâm văn hóa, hoặc khủng hoảng thiếu định hướng ở các loại hình kịch, xiếc, cải lương, các rạp chiếu phim quốc doanh, mạng lưới truyền thanh..., hoặc do trạng thái bão hòa, hưởng thụ "no" của cộng đồng đối với các mô hình truyền thống.
Song nguyên nhân quan trọng hơn, theo chúng tôi, có lẽ là do sức ì trong cơ chế quản lý Nhà nước đối với một số loại hình thiết chế văn hóa tỏ ra không còn phù hợp với nhịp sống năng động ở thành thị và tính dễ thay đổi theo thị hiếu hoặc chuộng cái mới lạ của thị dân.
Tình hình này đòi hỏi Nhà nước, một mặt cần phát huy mạnh mẽ vai trò trung gian đối với các di sản văn hóa - lịch sử mang tính truyền thống, cải tổ hệ thống thư viện đa phương tiện, bổ sung năng lực và loại hình hoạt động phù hợp ở các trung tâm văn hóa, nhà văn hóa; mặt khác cần ban hành các chính sách văn hóa nâng cao vai trò của các tổ chức cộng đồng trong xây dựng và quản lý các thiết chế văn hóa; tăng cường đổi mới tư duy nhận thức về hệ thống thiết chế văn hóa để có các chủ trương, chính sách tổ chức vận hành cho phù hợp.
Sau cùng, không thể không đề cập sự tương quan giữa Nhà nước và các tổ chức cộng đồng trong tổ chức quản lý các hoạt động thiết chế văn hóa. Mục đích của thiết chế văn hóa không nằm lưng chừng ở các phương tiện trung gian do Nhà nước quản lý, mà phải tính đến mức độ phổ cập (tiêu chuẩn định tính) của thiết chế văn hóa ấy trong đời sống cộng đồng và sự tham gia của cộng đồng (tiêu chuẩn định lượng) đối với thiết chế văn hóa.
Trong các thời kỳ lịch sử trước đây, thiết chế văn hóa tập trung ở kinh thành, ở các đô thị lớn, dành cho tầng lớp thượng lưu, kẻ cai trị có quyền thế hoặc lắm tiền của. Yếu tố phổ cập chưa được tính đến hoặc nếu có thì chỉ trong phạm vi hẹp, không phải là "sân chơi" phổ biến dành cho tầng lớp bình dân; còn yếu tố trung gian thường thu hẹp về quy mô dành cho tầng lớp trên, nếu phổ biến cho quảng đại công chúng thì có chăng chỉ nhằm mục đích tuyên truyền hoặc thu lợi.
Trong trào lưu "xã hội hóa" kể từ sau năm 1975, xét về mặt hiện tượng, dường như thiết chế văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có phần đi chệch từ yếu tố phổ cập theo tiêu chuẩn định tính trong đời sống cộng đồng sang yếu tố phổ biến theo tiêu chuẩn định lượng về mặt cơ chế quản lý Nhà nước. Hệ thống thiết chế văn hóa theo chiều dọc có xu hướng bị "hành chính hóa", chưa hoàn toàn xuất phát từ chính nhu cầu đời sống văn hóa thực sự của công chúng, cho nên dễ bị sa vào chủ nghĩa hình thức, xem nhẹ vai trò của các tổ chức cộng đồng.
Để thiết lập tương quan giữa Nhà nước và cộng đồng, theo chúng tôi, vấn đề không phải là rạch ròi về quản lý trong các mô hình thiết chế văn hóa giữa Nhà nước và cộng đồng, cũng không hẳn là vấn đề phân cấp phân quyền chuyển giao cho cộng đồng quản lý các thiết chế văn hóa, mà cần xây dựng cơ chế phối hợp nhuần nhuyễn giữa Nhà nước và cộng đồng, bảo đảm cho Nhà nước và cộng đồng thực hiện tốt các chức năng hoạt động của thiết chế văn hóa. Trong tương quan này, Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo, định hướng phát triển, hỗ trợ kinh phí, đào tạo nhân lực... mà không thay thế hoặc làm thay vai trò tổ chức thực hiện của cộng đồng.
Thiết chế văn hóa gắn với một địa bàn dân cư hoặc một tổ chức, đơn vị cộng đồng mang tính nguyên vẹn và bất khả phân chia. Yêu cầu phát triển đời sống văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa phải được vận hành theo một cơ chế thống nhất. Song hiện nay có tình hình hoạt động văn hóa của một đơn vị cộng đồng cùng lúc được nhiều đơn vị khác nhau báo cáo thành tích. Nguyên do là có nhiều cuộc vận động trùng khớp hoặc chồng chéo lẫn nhau (cuộc vận động xây dựng khu dân cư tiên tiến, xuất sắc của Mặt trận và phong trào xây dựng ấp văn hóa, khu phố văn hóa của Văn hóa Thông tin thực hiện dân chủ cơ sở của Đảng bộ địa phương), hoặc do cơ chế quản lý chia theo từng mảng (Thanh niên, Phụ nữ, Mặt trận, Văn hóa...), thậm chí do cơ chế chỉ đạo, vận động đơn thuần, thiếu sự hỗ trợ đi vào thực chất... Do đó, việc Thành phố lập ra Ban chỉ đạo thống nhất đối với các cuộc vận động phong trào là đúng đắn, song cần phân định rõ về mặt cơ chế quản lý của Nhà nước và nhiệm vụ tổ chức thực hiện trực tiếp của cộng đồng, trong đó Nhà nước luôn đóng vai trò "can thiệp" để hỗ trợ cộng đồng, cả về cơ chế kỹ thuật lẫn phương tiện vật chất.
oOo
Trong quá trình đô thị hóa, việc xây dựng và quản lý hệ thống các thiết chế văn hóa là vấn đề của xã hội nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của con người trong các cộng đồng khác nhau. Con người là chủ thể văn hóa của đời sống xã hội, vừa tham gia sáng tạo, vừa được quyền hưởng dụng. Môi trường xã hội được hình thành không phải do cơ chế, mà bởi chính các hoạt động tự thân của con người. Và để có các hoạt động này, con người không đơn độc mà luôn gắn với các cộng đồng và tổ chức xã hội.
Thiết chế văn hóa cung cấp các phương tiện, trang thiết bị vật chất cần thiết để con người vượt qua các giới hạn tầm thường thuộc về nhu cầu vật chất, bước chân vào cõi thần tiên thuộc về đời sống tinh thần. Cuộc sống càng tiện nghi, hiện đại thì nhu cầu đời sống tinh thần của con người càng phong phú và đa dạng. Chẳng vậy mà dân gian có câu: "được voi, đòi tiên"... Nhu cầu vật chất có thể thay thế cái này bằng cái khác, khác với đời sống tinh thần càng có nhiều càng tốt, có mới không hẳn bỏ cũ, thậm chí đồ càng cổ càng có giá trị cao. Thiết chế văn hóa trong đời sống xã hội là hệ thống các phương tiện hữu hiệu đóng vai trò trung gian thúc đẩy các cộng đồng phát triển. Cho nên, thiết chế văn hóa phải xuất phát từ các nhu cầu thực trong đời sống của cộng đồng, phục vụ lợi ích của cộng đồng. Phải chăng đó là ý nghĩa của chủ trương "xã hội hóa" trong vấn đề xây dựng hệ thống các thiết chế văn hóa hiện nay./-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương - TS. Đinh Văn An, TS. Võ Trí Thành (chủ biên), Thể chế - cải cách thể chế và phát triển. Lý luận và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội 2002.
2. Viện Văn hóa - Bộ Văn hóa Thông tin, PGS. PTS. Lê Như Hoa (chủ biên), Xã hội hóa hoạt động văn hóa, Nxb. VHTT, Hà Nội 1996.
3. Bộ Văn hóa-Thông tin, Vụ Văn hóa Dân tộc - Miền núi, Vi Hồng Nhân (chủ biên), Xây dựng đời sống văn hóa ở các tỉnh phía Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội 1996.
4. Michel Fragonard, Văn hóa thế kỷ XX, từ điển lịch sử văn hóa, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.
5. Sở Văn hóa và Thông tin TP. Hồ Chí Minh, Văn hóa Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX - Phụ lục : Các thiết chế văn hóa, TP.HCM 2001.
6. Nguyễn Ngọc Mô, Tìm hiểu lịch sử ngành thư viện - lưu trữ hồ sơ Việt Nam, Nxb. Thế Giới, Hà Nội 2002.
7. Bộ Văn hóa - Thông tin, Tài liệu Hội nghị về công tác xây dựng xã, phường, thị trấn văn hóa,TP. Cần Thơ, tháng 6/2004.
8. Viện KHXH, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX, những vấn đề lịch sử - văn hóa, Nxb. Trẻ, 2000.
9. Trung tâm KHXH&NV, Lược sử 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1968-1998), Nxb. Trẻ, 1999.
10. Ban Tư tưởng - Văn hóa Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 25 năm phát triển (1975-2000), tháng 4/2000.
11. Trung tâm KHXH&NV, Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển (1689-1998), Sở Văn hóa - Thông tin TP.HCM.
12. Gérard Poteau, Gérer les activités culturelles de la commune (Quản lý hoạt động văn hóa ở làng xã), Éd. de l'Atelier/Ed. Ouvrières, Paris 1996.
13. Roger Beaunez, Politiques culturelles et municipalités (Chính sách văn hóa và các hội đồng thị chính), Éd. Ouvrières, Paris 1985.
14. Isabelle Crucifix (chủ biên), Institutions et vie culturelles (Các thiết chế và đời sống văn hóa), la Documentation francaise - les Notices, Paris 1996.
15. Ministère des Communautés Francaises, Culture et Citoyenneté pour un développement culturel durable (Văn hóa và văn hóa công dân, vì sự phát triển văn hóa bền vững), số 6-2002.
Chú thích :
[1] Ibid. Roger Beaunez, tr. 31. Nguyên văn: "Faire du neuf avec de l'ancien", "ne pas tout casser".
[2] Theo các tác giả Phụ lục Các thiết chế văn hóa, công trình “Văn hóa Sàigòn - TP. Hồ Chí Minh thế kỷ XX” (2001), thiết chế văn hóa là "những nơi có chức năng lưu giữ, phát huy và sáng tạo ra các giá trị văn hóa, mà tiêu chuẩn của những thiết chế đó là phải có cơ sở vật chất, có bộ máy điều hành quản lý, có kế hoạch hoạt động"….
[3] Xem thêm: TNK, "Mấy ghi nhận bước đầu về điển hình xây dựng phường văn hóa tại phường 14 quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh", Nội san nghiên cứu con người và xã hội, Trung tâm KHXH&NV TP., 1/2005, tr.34-40.
[4] "Năm 1821, ngay khi việc đào kênh Vĩnh Tế đang được thực hiện ở giai đoạn đầu, Nguyễn Văn Thoại đã mộ dân đến khai phá lập nghiệp ở ven bờ kinh. Những năm sau đó, chính quyền vẫn cho tiếp tục việc mộ dân lập ấp. Đến năm 1853, triều đình nhà Nguyễn lại triển khai một đợt mộ dân khai hoang lập ấp ở Nam Bộ với qui mô lớn do Nguyễn Tri Phương thực hiện" - xem Huỳnh Lứa (chủ biên), "Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ", Nxb.TP.HCM, 1987, tr. 104.
[5] TT. KHXH & NV TP.HCM, Lược sử 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh (1698-1998), tr.70-71.
[6] TT. KHXH & NV TP.HCM, sđd, tr.71-72.
[7] Theo số liệu của Ban Tôn giáo TP.HCM, tính đến tháng 4/2001, Thành phố có 1.737.180 tín đồ, trong đó có 2.586 chức sắc, 5.086 tu sĩ và 3.784 người hoạt động tôn giáo không chuyên nghiệp tại 1.465 nơi thờ tự.
[8] Xem: Michel Fragonard, Văn hóa thế kỷ XX, từ điển lịch sử văn hóa, Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 944-950.