Qua khảo sát nhiều nơi trong tỉnh, ta thấy mỗi gia đình đều có bàn thờ gia tiên.Có khác nhau chăng ở cách bố trí nơi thờ tự ở trong nhà và việc bày biện các đồ thờ trên bàn thờ giữa những gia đình giàu có, trong những ngôi nhà xưa hay trong những ngôi nhà xây cất hiện đại ngày nay, giữa những nhà khá giả và những nhà bình dân.
Qua điều tra khảo sát ở Bến Tre cũng như nhiều tỉnh khác ở Nam Bộ, rất ít thấy nhà thờ tộc (họ) như ở miền Trung và miền Bắc. Tuy nhiên, ở những gia đình, dòng họ lớn, con cháu chung nhau làm nhà thờ, hoặc duy trì ngôi nhà xưa của ông bà để lại làm nơi thờ cúng, gọi là từ đường. Nhiều gia đình vẫn còn giữ được những bản gia phả, hoặc bằng chữ Hán, hoặc phiên thành chữ quốc ngữ ghi chép lại nguồn gốc, quá trình di chuyển từ nơi nay sang nơi khác, chức tước, công trạng, nghề nghiệp của người xưa v.v... Chính nhờ những nguồn tài liệu quý giá này, mà ngày nay chúng ta hiểu rõ được con đường, cách thức di chuyển, những nơi dừng chân, địa bàn cư trú của những lớp lưu dân ở vùng đất này. Cũng không hiếm trường hợp thay đổi tên họ do những biến động về chính trị, hay để tránh những cuộc truy bức, khủng bố của bên này hay bên kia, kể cả thực dân đế quốc.
Ở nông thôn, nhà dù nghèo khó đến đâu, không sắm được chiếc bàn bằng gỗ, thì cũng đóng một chiếc chõng tre, hay bằng tầm vông, cao ngang ngực, trên mặt đan vỉ hay ken tre, trên cùng trải chiếc chiếu con, người bình dân quen gọi là giường thờ. Trên giường thờ cũng đặt bánh hương, chân đèn bằng sành, để đĩa đựng dầu thắp, lọ cắm hoa v.v...
Đối với người giàu cũng như người nghèo, ngày giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ là "ngày tang trong suốt đời" (chung thân chi tang) để con cháu và người thân tưởng nhớ đến người đã khuất. Vì vậy, người dân có tập quán dành những món ngon nhất, tốt nhất, từ vật nuôi đến trái cây theo mùa vụ, cân nếp, cân đậu (dùng để nấu xôi, gói bánh) cho đám giỗ người thân. Nếu phải đi mua từ ngoài chợ, thì cũng phải chọn miếng thịt tươi, con cá ngon, con gà béo tốt để về làm thức dâng cúng. Vì mỗi năm chỉ cúng giỗ một lần, cho nên mọi người đều cho lễ giỗ là trọng, từ bà con xa gần đến cả đồng hương, đồng xóm, cũng như bạn bè thân thích. Dù làm việc ở nơi đâu, gần hay xa (dĩ nhiên trừ những hoàn cảnh cách bức quá lớn) con cháu trong gia đình phải nhớ ngày mà về.
Những gia đình khá giả thường làm lễ cúng tiên thường với lễ vật đơn sơ, gọn nhẹ từ nhiều hôm trước (như hàm ý mời gọi người thân đã quá cố hãy vui vẻ mà về với con cháu). Ngày hôm sau mới là ngày giỗ chính. Thường thì giỗ cha, giỗ mẹ, con cái làm lễ to, rồi trở lên mỗi đời xa hơn thì lễ giỗ tổ chức đơn giản hơn, không mời mọc nhiều người. Bà con, bạn bè đến ăn giỗ thường mang theo hương hoa, trái cây, rượu, bánh, trà để dâng cúng và lễ lạy trước bàn thờ người đã khuất, sau đó mới ngồi vào dự tiệc.
2. Tín ngưỡng thờ cá Ông
Tín ngưỡng phổ biến nhất là cư dân làm nghề biển của các huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú là tục thờ cá voi, thường được gọi là cá Ông. Đây là một tín ngưỡng dân gian hình thành trong quá trình tiến biến văn hóa Việt Chăm diễn ra từ đèo Ngang trở vào. Ngư dân ở biển phía Bắc không có tục thờ cúng cá voi.
Nguyễn Duy Oanh trong quyển Tỉnh bến Tre trong lịch sử Việt Nam (từ năm 1757 đến 1945) viết về tục thờ cá ông ở ven biển nơi đây: "Ở quận Ba Tri, dân chài lưới có lập một miếu thờ cá ông tại vùng Bãi Ngao (nay thuộc xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri). Mỗi khi ra khơi, họ thường cúng vái. Nhiều lần họ được cá Ông giúp đỡ trong lúc biển động mạnh, ghe họ sắp chìm. Họ cầu cứu cá Ông, thì ít phút sau đó, cá Ông hiện đến. Cá Ông kề lưng đỡ thuyền họ lướt qua sóng gió hãi hùng"
Trong chiều sâu tâm thức, người ngư dân đặt tin tưởng vào sinh vật khổng lồ vừa "hiền" vừa "thiêng" là loài cá voi, mà họ gọi một cách kính trọng là cá Ông, hoặc Ông, dù rằng sự cứu giúp đó mang tính huyền thoại nhiều hơn là hiện thực. Có rất nhiều danh từ để gọi cá voi với sự cung kính: Ông Nam Hải, Ông Lớn hay Ông Cậu để chỉ những cá voi to lớn, Ông Khơi để chỉ cá voi sống ngoài biển khơi, Ông Lộng để chỉ cá voi sống gần bờ. Ngoài ra còn có những cách gọi khác nhau như ông Thông, Ông Chuông, Ông Máng vừa ý nghĩa tôn kính.
Cá chết thị gọi là Ông "lụy". Khi phát giác có Ông lụy ngoài biển, người ta đưa thuyền ra dìu xác cá vào bờ rồi tổ chức lễ chôn cất rất long trọng.
Nơi thờ cá Ông được gọi là miếu Ông, nhưng thông dụng nhất là Lăng ông. Việc thờ cá Ông được quan niệm như là một cách đền ơn đáp nghĩa theo luật nhân quả của đạo Phật, coi cá Ông như là một thứ thần hộ mạng giữa biển khơi đầy sóng gió. Niềm xác tín ấy được phản ánh trong nội dung các bài tế văn tế bằng Hán Nôm, trong các bài hát bả trạo (còn gọi là hát đưa linh) và cả trong một số bài vè lưu hành trong cư dân ven biển. Nếu như trong các văn tế nghinh ông của các ngư dân miền Trung nghiêng về phần ngợi ca và gởi gắm niềm tin ở Ông về việc cứu người cứu thuyền trong cơn lâm nạn, thì nội dung văn tế trong nghinh ông từ Bà Rịa trở vào đến Cà Mau, Hà Tiên thường nhấn mạnh đến sự "phù hộ của ông" để cho được mùa đánh bắt, tôm cá đầy khoang, ghe thuyền ra khơi vào lộng an toàn.
Nếu như tín ngưỡng thờ Thành hoàng bổn cảnh và lễ hộ Kỳ Yên chỉ diễn ra trong khuôn viên của đình làng, thì tín ngưỡng thờ cá ông và lễ hội Nghinh ông lại vừa diễn ra ở lăng thờ cá Ông và cả trên mặt biển. Do đó, không khí của phần lễ cũng như của phần hội ở đây thường diễn ra sôi động và cuồng nhiệt hơn. Trong tâm linh của người ngư dân, lễ hội Nghinh ông không chỉ là dịp để họ bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn đối với một sinh vật linh thiêng mà còn gởi gắm vào đó cả niềm tin và hy vọng ở một vị thần hộ mạng sẵn sàng cứu giúp họ trong cơn hoạn nạn, trong những lúc hiểm nghèo giữa nơi biển cả.
Trên địa bàn tỉnh Bến Tre, suốt dọc dài ven biển của 3 huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú có tất cả 9 lăng thờ cá Ông. Lễ nghinh ông có thể chênh nhau về ngày tháng, quy mô tổ chức ở từng nơi có thể khác nhau, tùy theo làng cá, vạn cá đông hay ít, nhưng ý nghĩa và mục đích thì rất giống nhau. Có một ngoại lệ là tại huyện Bình Đại, có lăng thờ cá Ông ở xã vang Quới Tây, nằm cách xa bờ biển, tất cả các lăng thờ đều lưu trữ nhiều bộ cốt cá Ông, đặt ở nơi hậu tẩm. Người dân làm nghề biển coi những bộ cốt ấy là sự hiện diện cụ thể của đối tượng thiêng mà họ thờ cúng.
Nếu như lễ cúng đình (lễ Kỳ Yên) hàng năm ở làng quê là lễ hội to nhất của cư dân trồng lúa nước và làm vườn, thì lễ cúng cá Ông (lễ nghinh Ông) là lễ quan trọng bậc nhất của ngư dân ven biển Bến Tre. Thành hoàng hay những vị thần khác được thờ phụng ở đình chỉ nằm trong quan niệm về cõi siêu linh, qua tưởng tượng, trong khi đó cá Ông, theo ngư dân là sinh vật thiêng ở biển, được biểu hiện bằng những bộ xương cốt đặt nơi khám thờ, bằng những ngôi mộ nằm rải rác trong khuôn viên của dinh, hay lăng thờ và cả những con cá Ông đang bơi, lặn ở nơi biển khơi, mà họ tin rằng khi gặp tai họa, rủi ro, họ sẽ nhận được sự cứu giúp.
Lễ Nghinh Ông, hay còn gọi là lễ tế, lễ rước, lễ cúng cá Ông, tùy theo cách gọi của từng địa phương, ở nơi vạn chài, bến cảng thuộc các xã ven biển Bến Tre, về cơ bản không có gì khác biệt nhau lắm. Thời gian tổ chức lễ giữa nơi này và nơi khác có thể chênh nhau, nhưng thường diễn ra trước mùa đánh bắt ở biển.
Vì vậy, có nơi kết hợp lễ Nghinh Ông với lễ cầu ngư, mở đầu cho mùa cá mới của năm. Ở xã Thới Thuận (huyện Bình Đại) lễ Nghinh Ông được tổ chức vào ngày 20-6 (Âm lịch), ở xã Thừa Đức cùng huyện, lễ mở vào ngày 23-4 (Âm lịch), ở Bảo Thạnh, Tân Thủy (huyện Ba Tri) lễ mở vào ngày 15 và 16-6 (Âm lịch). Ở xã Bình Thắng (huyện Bình Đại) lễ cũng được tổ chức vào hai ngày 15 và 16-6 (Âm lịch).
Sự thờ cúng cá Ông tạo ra một lễ hội trong đời sống văn hóa các xã vùng biển. Lễ hội Nghinh Ông là dịp để người dân làm nghề biển thư giãn, lấy lại thăng bằng tâm linh sau những ngày lao động vất vả, đồng thời để tỏ lòng biết ơn đối với một sinh vật "thiêng" ở biển, mà trong tâm thức nhiều ngư dân vẫn chứa đựng một niềm tin về sự giúp đỡ của cá Ông khi gặp tai nạn. Có thể nói, ngày lễ hội Nghinh Ông là ngày tưng bừng đối với người dân vùng biển. Không khí náo nức, tràn trề hưng phấn bắt đầu khi chờ đợi "Ông lên vọi" ngoài khơi, khi thấy việc xin ông làm chứng đã hoàn tất qua động tác xin keo của ông chánh bái. Dọc đường đoàn ghe ra khơi nghinh ông trở về, hai bên bờ sông các ghe thuyền đều chăng kết hoa, bày lễ cúng và đốt pháo giòn giã. Ở tại nhà suốt ngày hôm ấy, các ngư dân mời mọc nhau, kể cả khách từ xa đến, cùng nhau ăn uống vui chơi, trò chuyện thân tình.
3. Cách bài trí thờ tự
Thông thường thì bàn thờ gia tiên được bố trí ở gian giữa của ngôi nhà, cũng có thể bố trí gian bên ở bên trái từ ngoài sân nhìn vào. Những gia đình giàu có, sang trọng thuộc lớp trung lưu thì đồ thờ gồm một bệ "tam sự" (một cái đỉnh (lư), cặp chân đèn bằng đồng để cắm nến, hay một bộ "ngũ sự" có thêm lọ độc bình, chân bệ để đèn. Nếu là bộ "thất sự" thì có thêm ống đựng hương, ống cắm đũa là một nồi hương để cốt trầm. Tất cả đều đúc bằng đồng. Những nhà khá giả còn có đôi hạc nhỏ cũng bằng đồng. Đồ thờ, nếu không có điều kiện sắm bằng đồng thì làm bằng gỗ tiện và thường sơn đỏ.
Thông thường người ta chia gian thờ làm ba lớp. Lớp ngoài là bộ phận phản để mọi người đến làm lễ, không đặt phản thì để trống nền nhà, khi cần có thể bày thêm bàn ghế, hay trải chiếu. Lớp thứ hai là hương án, trên đặt bộ đồ "tam sự" hay "ngũ sự" lớp thứ ba ở trong cùng mới thực sự là bàn thờ người đã khuất, trên để khám sơn son, bài vị, hộp hay ống đựng gia phả, khay đựng vật cúng, đài rượu và có thể có ảnh chân dung người quá cố.
Ngoài bàn thờ, người ta có che một chiếc màn gọi là ỷ môn. Khi cúng lễ xong, phải bỏ màn xuống để che khuất bàn thờ, để một lát sau mới hạ cỗ bàn. Ý nghĩa của hành động này theo quan niệm xưa "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn", kính mời các vị tổ tiên, ông bà về chung hưởng vật phẩm do con cháu dâng cúng. Khi các ngài "ăn uống" phải che màn lại, để người ngoài không nhìn thấy.
Ở Bến Tre cũng không hiếm những nhà giàu có, điền chủ, quan lại, công chức cũ, trong gian dành để thờ tự còn được trang hoàng những bức hoành phi, liễn đối sơn son thiếp vàng. Ngoài ý nghĩa trang trí, những thứ bày biện ở nơi đây còn nhằm tăng sự tôn nghiêm, biểu tỏ lòng tri ân của con cháu đối với tiền nhân.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với sự xâm nhập của kinh tế thị trường, văn hóa phương tây cũng tràn vào thuộc địa. Hiện tượng đô thị hóa dần dần rõ nét. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều ngôi nhà hiện đại theo kiến trúc Châu Âu - thường gọi là nhà Tây - của các quan chức, nhân viên làm việc cho Pháp không chỉ ở thành phố, thị trấn mà cả ở vùng quê. Ở những ngôi nhà này, không gian thờ cúng được bố trí trong những gian phòng, diện tích hẹp. Do đó, đã ra đời một loại tủ thờ được cách tân từ tủ đứng của Pháp, chỉ khác ở chỗ không có hai cánh cửa mở, hay đẩy ở phía trước, mà chỉ có cửa mở ở hai bên hông (có người giải thích cách thiết kế này là nhằm tôn kính tổ tiên). Dần dần, kiểu tủ thờ này được "dân tộc hóa" thêm bằng những hoa văn hay hình ảnh mai, lan, cúc, trúc và sang hơn là cẩm xà cừ. Loại tủ thờ này, do sự tiện lợi và "môđéc" của nó, nên cũng được nhiều gia đình khá giả ưa chuộng.
4. Đình làng và kiến trúc đình làng Bến Tre
Một nét đẹp truyền thống của người dân Bến Tre là tục thờ phụng những người có công trong sự nghiệp khai phá, xây dựng phát triển văn hóa, cũng như trong sự nghiệp chống ngoại xâm. Vị thần được thờ ở trung tâm của đình làng không chỉ có Thành Hoàng bổn cảnh mà còn có Thần Nông, Thổ Địa, Thổ Công, và các thần nữ, bà Chúa Xứ, bà Ngũ hành,...Cư dân làm nghề nông phương thức canh tác chính là nghề trồng lúa nước và nghề làm vườn, trồng giồng. Thiết chế vật chất trong tín ngưỡng của cư dân làm nghề nông là đình làng.
Theo kết quả điều tra, khảo sát của Viện khoa học xã hội tại Thành phố Hồ chí Minh và Sở Văn hóa -Thông tin tỉnh Bến Tre vào các năm 1982-1984, thì qua 64 xã đã khảo sát, Bến Tre có hơn 90 ngôi đình lớn nhỏ. Theo một thống kê vào năm 1993 của Bảo tàng tỉnh Bến Tre, trên địa bàn 7 huyện thị (chưa tính huyện Ba Tri) thì Bến Tre có 133 ngôi đình, phân bố ở các huyện sau:
• Huyện Giồng Tôm 22 ngôi đình
• Huyện Chợ Lách 22 ngôi đình
• Huyện Bình Đại 17 ngôi đình
• Huyện Thạnh Phú 10 ngôi đình
• Huyện Châu Thành 16 ngôi đình
• Huyện Mỏ Cày 35 ngôi đình
• Thị xã Bến Tre 11 ngôi đình
Theo sách La Cochinchine et ses habitants, Provinces de L'Ouest của J.C.Baurac năm 1894, tỉnh Bến Tre có một số ngôi đình nổi tiếng như: đình An Hội (thị xã), đình Tân Hào, Mỹ Thạnh (huyện Giồng Tôm), Đa Phước Hội, Tân Hương, Hương Mỹ, Phước Mỹ Trung, Nhuận Phú Tân (huyện Mỏ Cày), An Thạnh, Trường Thạnh, Đại Điền (huyện Thạnh Phú). Trong các tư liệu này không thấy nhắc đến đình Phú Lễ (huyện Ba Tri), đình Bình Hòa (huyện Giồng Tôm), đình Phú Thuận, Lộc Thuận (huyện Bình Đại). Phải chăng đây có một sự bỏ sót, hoặc những đình này mới được trùng tu và mở rộng quy mô xây cất sau năm 1914 ?
Tác giả Văn Đình Hy cho biết, qua khảo sát các xã, Bến Tre có 18 ngôi đình lớn, cụ thể ở các huyện như sau: Huyện Châu Thành có các đình Tiên Thủy, Tân Thạch; huyện Giồng Trôm có các đình Bình Hòa, Sơn Phú, Lương Quới; huyện Thạnh Phú có các đình Thạnh Phú, Đại Điền; huyện Chợ Lách có đình Sơn Định; huyện Ba Tri có các đình Phú Lễ, Phú Ngãi, Phước Tuy, Tân Thủy; huyện Mỏ Cày có các đình Tân Thạnh Tây, Đa Phước Hội, Minh Đức, Hương Mỹ, Nhuận Phú Tây; huyện Bình Đại có đình Phú Thuận
Về kiến trúc đình làng ở Bến Tre, không gian thiêng của tín ngưỡng có những khác biệt so với kiến trúc đình làng ở đồng bằng sông Hồng, ở chỗ chúng đều có một gian võ ca. Chức năng của gian võ ca này được dùng để làm nơi tổ chức hoạt động diễn tuồng, nơi vui chơi, giải trí của bà con nông dân trong ngày hội đình. Sự xuất hiện của gian võ ca trong tổng thể các di tích đình làng Bến Tre, cũng như đình làng ở các tỉnh khác ở Nam Bộ, khiến chức năng của đình ở đây thay đổi.
Thông thường, ngôi đình làng có hai chức năng: chức năng tín ngưỡng và chức năng thế tục. Nghĩa là ngôi đình làng vừa là trú ngụ của thần linh, vừa là công sở của làng xã. Đình làng ở Bến Tre, vẫn mang hai chức năng ấy, nhưng trong chức năng thế tục, ngôi đình đã phát sinh chức năng mới. Đó là "chức năng của một sân khấu", một "nhà văn hóa". Mặt khác trong tổng thể kiến trúc ngôi đình liên quan đến chức năng tín ngưỡng, đình làng ở Bến Tre không có cái nghè/miếu. Nếu ở Bắc Bộ "miếu là chỗ quỷ thần bằng y, đình là nơi thờ vọng" hay "Đấy là một điểm kết thúc lễ hội rước hàng năm tôn kính dành cho vị thần" thì ở đình làng Bến Tre lại không có một bộ phận kiến trúc cho hoạt động này.
Sự thay đổi của thiết chế kiến trúc được tạo ra từ sự thay đổi diện mạo thần linh được thờ phụng trong đình làng Bến Tre. Trong không gian thiêng của đình làng ở Bắc Bộ chỉ có vị thần Thành Hoàng được phụng thờ. Đành rằng, Thành Hoàng có thể là một vị, hay nhiều vị. Trong đình làng chỉ có thêm Thổ công được thờ phụng mà thôi. Trong khi đó, diện mạo thần linh trong đình làng ở Bến Tre lại khá phồn tạp, với nhiều loại thần khác nhau do sự tiếp biến văn hóa trong quá trình cộng cư với người Hoa, Khmer, người Chăm và các cư dân bản địa khác.
Ngoài vị thần được thờ ở vị trí trung tâm là Thành Hoàng bổn cảnh, đình làng ở Bến Tre còn có nhiều vị thần khác nhau. Đó là các thần nam như Thần Nông, Thổ Địa, Thổ Công, và các thần nữ như Tứ Vị Đại càn thánh nương, bà Chúa Xứ, bà Ngũ hành, và các thần tự nhiên như thần Hổ, thần Sông, Như Lang lại đại tướng quân, là các vị thần hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ. Có thể nói, đình làng ở Bến Tre là nơi tập hợp thần linh từ nhiều nguồn gốc khác nhau, được tạo ra từ hai nguồn: do nhà nước thế tục dội xuống để người dân phụng thờ như Thành hoàng bổn cảnh, như Tứ vị đại càn thánh nương; do người dân đưa vào thờ phụng như thần Hổ, bà Chúa xứ, thổ địa, như tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ. Người dân không có sự kỳ thị, hay phân biệt nào giữa các vị thần cả về bàn thờ lẫn nghi thức cúng tế, vật phẩm dâng cúng.
Đầu tiên là Thành hoàng bổn cảnh. Đây là vị thần chính được phụng thờ ở đình làng. Với các làng trên địa bàn Bến Tre, Thành hoàng bổn cảnh chỉ có một trụ sở độc nhất, không có nơi "bằng y" như Thành hoàng làng ở đầu sông Hồng.
Với người Việt, thế kỷ XVIII là lúc tục thờ cúng Thành hoàng đã có bước ổn định. Những lưu dân mang trong tâm thức, cả ý thức từ nơi quê cũ, mà chủ yếu từ Thuận Quảng, tới vùng đất mới, có lẽ vị thành hoàng, vị thần của công xã làng mạc, cùng các vị thần bản địa, là chỗ dựa tâm linh của lưu dân khai phá. Nhà nước quân chủ không thấy chỗ dựa nào tốt hơn để cai quản tâm linh lưu dân khai phá là dựa vào vị thần này.
Qua các cuộc khảo sát trên địa bàn Bến Tre như đã nói trên, chưa thấy đình nào có sắc phong thần Thành hoàng ở đời Gia Long hay Minh Mạng. Sớm hơn cả là các sắc phong năm thứ 5 đời Thiệu Trị cho đình Hằng Thạnh (nay thuộc xã Long Định, huyện Bình Đại). Đa số các đình còn sắc lại, sắc phong Thành hoàng đều được ghi vào thời Tự Đức (1851) như đình Lộc Thuận (xã Lộc Thuận, huyện Bình Đại), đình Vang Quới (nay là xã Vang Quới Đông, huyện Bình Đại) vào năm 1852, đình Mỹ Hóa (nay thuộc xã Mỹ Hóa, thị xã Bến Tre) vào năm 1853 v.v... Những sắc phong ấy chính là sự công nhận của vương triều cõi tục, công nhận vị "viên chức Thành hoàng" làm nhiệm vụ trông coi một làng cụ thể, không phải để đe dọa dân mà để bảo vệ dân.
Tuy nhiên, từ phía người dân, họ quan niệm vị thần được thờ ở trung tâm của đình làng không hoàn toàn chỉ có Thành Hoàng bổn cảnh. Những giai thoại được lưu giữ ở một số vùng cho thấy, người dân còn đưa cả cọp vào thờ trong đình với tư cách "ông Cả", như ở đình Châu Bình, huyện Giồng Trôm. Hoặc ở Thạnh Phú, cũng theo truyền thuyết cọp có công "chọn đất để làm đình" giúp dân làm ăn được thịnh vượng, nên người dân coi cọp là nhân vật quan trọng được thờ phụng trong đình.
Ở làng Tân Hưng, người dân lập miễu ở ngay trong khuôn viên của đình, thờ ông Yến, một người có sức khỏe phi thường đã đánh được cọp chúa, để "tinh cọp nhập vào", làm ông trở thành "chúa cọp", đem lại cuộc sống bình an cho dân làng. Ở làng Thới Thạnh Phú, người dân đã phong thần và thờ ông Võ Văn Thành, người đã chống Pháp, bị chúng giết, chặt làm đôi. Lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng hy sinh trong trận chống Pháp (27-6-1866) được nhân dân làng Mỹ Thạnh, nay là xã Mỹ Thạnh, huyện Giồng Trôm lập đền thờ ở ấp Giồng Keo. Từ năm 1984, nhân dân địa phương đem bài vị của ông vào thờ ở đình làng Mỹ Thạnh. Nhiều làng ở huyện Ba Tri thờ Tán Kế Lê Quang Quan trong đình làng làm thần, vì ông đã đứng lên chống Pháp. Như thế, thái độ của người dân với ông Thành hoàng bổn cảnh, cũng như mọi vị thần khác, nghĩa là, nếu họ có công lao với dân làng, thì họ được phụng thờ.
Trong các nhân vật được triều đình phong kiến nhà Nguyễn đưa về thờ phụng ở các làng quê của tỉnh Bến Tre, ngoài vị thần Thành hoàng bổn cảnh, còn có hai thần khác. Đó là tứ vị đại càn thánh nương (còn gọi là Đại càn quốc gia Nam Hải), được thờ ở đình Long Định (huyện Bình Đại), ở đình xã Mỹ Hóa (thị xã Bến Tre) và Cao các quảng độ tôn thần, được thờ phụng trong các đình xã Mỹ Hóa (thị xã Bến Tre), trong đình Quới Sơn và đình Giao Long (huyện Châu Thành).
Theo thống kê từ các báo cáo của các làng quê ở Bến Tre năm 1938, như yêu cầu của hội khảo cứu phong tục, với 62 thôn của các tổng Bảo An, Bảo Lộc, Bảo Phước, Bảo Thuận, Bảo Trị, Minh Thiện, Minh Đạo ,thần Thành hoàng với các mỹ tự chung: đôn ngưng quảng hậu chính trực, chiếm 27 trường hợp, hoặc danh từ bổn cảnh thành hoàng chiếm 19 trường hợp.
Như thế, trong quan niệm về cõi siêu linh ở không gian làng quê của bến Tre, nhà Nguyễn đã đưa về ba vị thần: Thành hoàng bổn cảnh (thần Đất), Tứ vị Đại càn thánh nương (thần Biển) và Cao các quảng độ tôn thần (thần Núi) tượng trưng cho ba hình thức không gian, ba miền vũ trụ. Thông thường, ở nơi chánh điện của đình làng, người dân chỉ vẽ một chữ "Thần" (bằng chữ Hán) duy nhất.
Ngoài những vị thần được nhà nước quân chủ chuẩn nhận, các đình làng ở Bến Tre còn thờ phụng một số thần khác như thần Nông (vị thần có khả năng mang lại cảnh mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt), thần Hổ (một sinh viên khá phổ biến ở vùng cù lao thời khai phá đã lưu lại nhiều giai thoại, truyền thuyết), bà Chúa xứ... Các thần này thường được thờ trong khuôn viên của đình, hoặc ở dạng lộ thiên hay có mái che.
Trên tinh thần "uống nước nhớ nguồn" các vị tiền hiền có công lập làng và các vị hiền có công khai phá, tạo dựng xóm ấp, chợ búa... đã được nhân dân trân trọng đưa vào thờ phụng trong đình như một loại "nhân thần" dù là phiếm định hay có tên vụ thể.
Tín ngưỡng của ngư dân làm nghề nông ở Bến Tre được phản ảnh đầy đủ qua lễ cúng đình hằng năm tổ chức tại nơi đình làng, thường được gọi là lễ Kỳ Yên.
Thời điểm tổ chức lễ Kỳ Yên tùy theo từng làng quy định khác nhau. Đình Phú Khương (thị xã Bến Tre), mở lễ Kỳ Yên vào các ngày 12, 13 tháng 4 (Âm lịch), đình Phú Hưng tổ chức lễ Kỳ Yên vào ngày 16, 17 tháng 3 (âm lịch) v.v... Nói chung các đình làng ở Bến Tre đều tổ chức Kỳ Yên vào thời điểm cuối mùa khô, chuẩn bị bước vào mùa mưa.Lễ hội ở đình làng Bến Tre vẫn là một nhu cầu tâm linh của cư dân làm nghề trồng lúa nước, nó xuất phát từ một niềm tin tưởng ở một vị thần mà theo họ đang ngự trị ở ngôi đình làng.
Lễ hội ở đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã có những nét riêng biệt, khi đặt vào cùng loại hình, cùng tộc người. Lễ cúng đình ở nơi đất mới, đã góp phần làm cho bức tranh tổng thể về lễ hội cổ truyền của người Việt có những đường nét mới, làm phong phú giá trị văn hóa của lễ hội cổ truyền Việt Nam.
Nguồn: sưu tầm