Thời xưa, khi người Việt chưa biết làm duyên bằng son phấn, thì cái duyên trầu cau đã làm đẹp cho bao cô gái, bao thiếu phụ và cả những bà già mắt đã mờ, chân chậm ngồi trầm ngâm lơ đãng nhìn trời mưa, tay cầm chiếc cối đồng nhỏ xíu, chầm chậm nghiền miếng trầu cho nhuyễn, nghe tháng năm râm ran chạy từ chót lưỡi lên đôi má và trong phút chốc, tuổi trẻ như vãn hồi trong chút ửng hồng trên gương mặt già nua.
Mai này không biết chúng ta có còn thấy được những người đàn bà thong thả nhai trầu, mắt họ long lanh. Môi họ thắm đỏ và một mầu hồng nâu say say ửng trên đôi má! Ấy là khi trầu đã bén duyên cau. Và vôi, và vỏ, và chút thuốc lào gợn dưới vành môi. Làn môi trên của người đàn bà ăn trầu được nhẹ cong lên một chút, như mọng hơn, như hờn dỗi, để làm lung linh thêm cái duyên nghĩa trầu cau.
1. Sự tích trầu cau
Phong tục ăn trầu vốn đã có cực kì lâu đời ở Việt Nam, Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một câu chuyện cổ tích nổi tiếng: Chuyện Trầu Cau.
Sự tích kể rằng: Thời xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Bố mẹ chết sớm, hai anh em theo học ông đạo sĩ họ Lưu. Họ học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Khi hai anh em đến tuổi trưởng thành, ông thầy gả con gái cho người anh
Từ khi người anh có vợ thì tình thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.
Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, chị dâu nhầm là chồng mình ôm chầm lấy. Người anh về sau thấy thế hiểu nhầm và càng hờ hững với người em.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Ði đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Ðêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, người vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, rồi cuối cùng cũng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay? Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.
Trầu cau và đá vôi là mối tình dân tộc. Miếng trầu cay, nồng thắm đỏ, ăn rồi không bỏ được nhau. Đó là duyên là tình, là hoà hợp của những câu chuyện “ ngày xửa , ngày xưa...”
2. Trầu cau trong triết lý người Việt Nam
Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương hài hoà. Khái niệm “âm dương” có thể gặp trong nhiều lĩnh vực : xin âm dương ( tung hai đồng xu sao cho một sấp, một ngửa. ) , ngói âm dương ( ngói lợp nhà kiểu viên sấp, viên ngửa). Người Việt Nam từ tư duy đến cách sống , từ các dấu vết cổ xưa đến thói quen hiện đại, khắp nơi đều toát lên tính cách quân bình âm dương như một đặc trưng chung nhất.
Tục ăn trầu cau tiềm ẩn một triết lý về sự tổng hợp của nhiều chất khác nhau : Cây cau vươn cao là biểu tượng của trời (dương) , vôi đất đá biểu tượng của đất (âm) , dây trầu mọc lên từ đất , quấn quýt lấy thân cau , biểu tượng cho vai trò trung gian hoà hợp . Trầu cau nhai làm một , miếng trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau , cái cay của lá trầu, cái nồng nàn của vôi, cái bùi của rễ...tất cả tạo nên một chất kích thích , làm cho thơm mồm, đỏ môi .
Miếng trầu còn tàng ẩn, tiềm ẩn tình nghĩa anh em ở nơi sự tích trầu - cau - vôi: Sống chia rẽ anh em là chết. Sự hối hận đền bù cho cái chết, bằng cái chết... Chết rồi nhưng vì biết hối hận nên lại sống lại, hóa thân nơi trầu - cau - vôi, hòa hợp nơi miếng trầu. Một triết lý nhân sinh huyền nhiệm, tuyệt vời, không cần rao giảng rườm lời như triết lý Tây, không cần "thiên kinh địa nghĩa" như triết lý Tàu. Triết lý Việt Nam thường là "triết lý vô ngôn" mà hay. Mà mầu nhiệm. Mà đầy tính "hiệu quả".
3. Nét đẹp và giá trị của văn hoá trầu cau:
Tục ăn trầu cũng là một trong những yếu tố cấu thành nền văn hoá Việt Nam, hơn thế nữa, nó chính là một nét giao tiếp đặc sắc của người Việt, mang nặng tình người và chở nặng tính người nhất.
Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt nên hiển nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn học dân gian. Sự tích Trầu Cau là một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó quên cây cau-người chồng, dây trầu-người vợ và hòn đá (vôi)-đứa em trai chồng...
Rồi đến cả trăm câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian mà tập trung nhất là những bài, những câu của trai gái nói, hát với nhau gọi là những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. Hát mời trầu có tới hàng trăm câu hát khác nhau nhưng câu nào cũng nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc nói về cái tài của người bổ cau, têm trầu. Câu hát mời trầu cũng là câu hát bày tỏ lòng mình. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng". Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào. Người thôn nữ má hồng răng đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai, như câu ca xưa:
"Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen."
Đối với người Việt Nam, trầu cau là biểu tượng của tình cảm. Gặp nhau sau câu chào, người ta mời trầu. Mời trầu để làm quen, và để tỏ lòng tin cậy... Một người phương Tây đến Việt Nam thế kỷ 17 nhận xét: Người Việt Nam đi đâu cũng có túi trầu mang theo. Gặp nhau, sau câu chào hỏi, cởi túi trầu, người nọ lấy miếng trầu ở túi người kia, rồi vừa ăn trầu "của nhau" vừa trò chuyện... Mến yêu, tin cậy, lịch sự biết bao!
Cau trầu còn biểu đạt tình yêu nam nữ một cách rất tinh tế và ý nhị.
Này đây là miếng trầu tỏ tình của người con gái đưa cho người con trai:
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu
Trầu này trầu tính, trầu tình,
Trầu loan, trầu phượng, trầu mình lấy ta.
Hay khi người con gái cầm miếng trầu do người bạn trai trao, hiểu rõ đó không chỉ đơn giản là trầu :
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn.
Cái "bạo dạn" của người thôn nữ xưa không đi "quá" đến sự "trâng tráo" mà được "cân bằng" lại bằng sự "giữ gìn", giữ lấy cái mà phương Tây xem là "nữ tính" hơn cả: tính e thẹn:
Sáng nay em đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Miệng nói tay cởi túi trầu mời ăn.
Thưa rằng: Bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người...
Phép biện chứng vừa bạo dạn, vừa e thẹn đúng nơi, đúng lúc, là nghệ thuật sống của người thanh nữ...Đó là nghệ thuật chối từ mà giờ đây ít ai chịu học vì đã quá quen với sự "thu nhận".
"Nên vợ, nên chồng" rồi, thì khi người chồng ra đi vì việc công vì việc quân, người vợ đảm cũng têm trầu, giữ tình nghĩa nơi miếng trầu tiễn chồng ra trận:
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm cho chồng đi quân.
Một giá trị đẹp, một cử chỉ đẹp. Đẹp và lịch sự. Duyên thầm. Tình ẩn. Tiềm ẩn nơi miếng trầu. Một lời chúc phúc. Một ý mong chiến thắng.
Đối với người Việt Nam, tục ăn trầu phải đủ bộ ba trầu, cau, vôi như sự tích trầu cau đã đề cập. Phải có đầy đủ những vật dụng gắn với việc ăn trầu như ngày nay vẫn thấy, đó là cơi trầu, là dao bổ cau, là chiếc âu trầu, là bình vôi, chìa vôi, ống vôi, là khăn, là túi đựng trầu. Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp. Như thế đủ thấy trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời biết dường nào.
Trầu cau còn là một thứ đi đầu các sự lễ nghĩa. Ngoài việc phục vụ tục ăn trầu của người Việt, trầu cau còn là lễ vật không thể thiếu trong các lễ lạc, giỗ, chạp. Dân gian có câu "Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ" để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân. .
Bất kỳ giỗ, chạp lớn hay nhỏ cũng phải có đĩa trầu cau đặt trên bàn thờ cúng tổ tiên, ông bà. Trong ngày tết luôn luôn có đĩa trầu cau trên các bàn thờ để cầu tài lộc cho năm mới. Cau thờ phải chọn trái cau xanh, to, ruột nhiều, vỏ mỏng. Trầu chọn lá trầu xanh, to không bị rách Ngoài ra trầu cau còn để tiếp khách đến chúc xuân đầu năm. Đặc biệt, nét văn hóa truyền thống được lưu truyền đến ngày nay, đó là đi chợ mở hàng trước hết phải mua trầu cau rồi mới mua các thứ khác. Ở nhiều địa phương vào sáng mồng một tết có bà già gánh trầu cau đi bán, khi nghe tiếng rao “ Ai mua lộc đầu năm đây!” thì nhà nhà đều nhanh chân chạy ra chọn mua, không trả giá mà tùy lòng hảo tâm của mỗi người.
Trong tang ma ngoài việc cúng trầu cau, khi đưa tang phải có khay trầu để mời bà con đưa đám. Lúc tạ lễ với đội Ông Công phải có đĩa trầu cau.
Trong phong tục cưới hỏi, trầu cau càng quan trọng hơn. Có hẳn một lễ riêng gọi là “Lễ hỏi/bỏ trầu cau”. Lễ này từ nhà trai mang đến nhà gái, gồm có tiền, vàng, bánh trái,... và không thể thiếu trầu cau. Lễ này ghi nhận sự thoả thuận thống nhất giữa 2 nhà trai- gái kết tình sui gia. Ở lễ cưới, quả (mâm) trầu cau phải được phủ khăn đỏ thể hiện sự may mắn và luôn đặt ở vị trí đầu tiên trong các vật phẩm làm lễ (bánh trái, trà, rượu, tiền vàng,...). Điều đó thể hiện trầu cau là lễ vật đặc biệt quan trọng gắn kết duyên phận của con người.
Miếng trầu, đơn giản thế thôi: Trầu, cau, vôi, nếu có thể thêm tí vỏ, viên thuốc lào (với người ăn "trầu thuốc"). ấy thế mà miếng trầu mang đậm "cá tính con người". Người ta têm trầu là để mời trầu, mời người khác ăn trầu.
Nhìn miếng trầu, đã biết được con người "têm" nó. Chàng hoàng tử trong truyện cổ tích nhận ra nàng (Tấm) là do miếng trầu, là nhờ miếng trầu, ở cái dáng đẹp (hay xấu) của miếng trầu têm, ở nếp gấp lá, cài trầu ở cái cánh trầu...
Ăn miếng trầu, càng biết được "tính nết" người têm nó. Giản dị hay cầu kỳ. Đậm đà hay nhạt nhẽo. Do chất lượng và số lượng vôi bôi trên lá trầu. Và có khi miếng trầu "ở giữa đậm quế hai đầu thơm cay"... Trầu cau đã góp phần làm cho kho tàng văn hóa dân gian thêm phong phú. Tóm lại, trầu cau đã đi vào đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Việt ngàn năm trước và trở thành tính biểu tượng của tập quán dân tộc, của truyền thống văn hóa, của tình nghĩa thủy chung son sắt từ bao đời nay của dân tộc ta.
Người thời nay dẫu đa số chẳng ăn trầu song vẫn âm thầm nhớ, da diết nhớ cái duyên nghĩa trầu cau. Phải chăng đó là cái duyên của sự chuyển hóa, của sự biến điệu. Trầu, cau, vôi, vỏ... tất cả nếu đứng riêng rẽ thì mỗi thứ chỉ là cây, là đá, là lá. Nhưng khi chúng hợp lại, hòa quyện, được ủ ấp trong môi miệng của con người, thì tất cả bỗng biến đổi. Trở nên đằm thắm, trở nên rực rỡ. Và trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên.
Còn ít ỏi lắm những cụ bà còn gắn với duyên nghiệp trầu cau. Rồi họ cũng sẽ lần lượt đi theo tiếng gọi của đất. Song chút hương xưa, chút duyên thầm của nét văn hóa này còn đó. Còn một mạch ngầm toả lan trong dòng máu của người Việt Nam không dễ gì mai một.
Nguồn: www.cinet.gov.vn