Câu hát dân gian, mà chính xác có lẽ là câu hò chèo ghe cổ xưa, của vùng đất phương Nam này chỉ ra một điều khá trùng hợp với ghi chép trong thư tịch Hán Nôm cổ: Ở ngã ba Tam Giang trên song Nhà Bè là một giao thủy, phía Nam có nước ngọt song Phước Long (tên gọi của song Đồng Nai) và phía Bắc có nước lạt song Tân Bình, tục danh là sông Bến Nghé – dòng sông dài từ giao thủy Tam Giang ấy chảy đến tận thượng nguồn Bương Đàm (Tây Ninh): Dòng sông và những nhánh nhóc của nó đã đưa những lưu dân đến những vùng đất mới của xứ Gia Định – Sài Gòn khẩn hoang lập nghiệp; và theo thời gian, dòng song này đã đưa các luồng giao lưu văn hóa từ bên ngoài vào cũng như lan tỏa ra các vùng đất xa xôi hơn, nhất là khi cái bến dưới sông đầy sấu lội này trờ thành Bến Thành và các đoạn sông đào đã nối nó với Sài Gòn phố thị (Chợ Lớn) xuống tới đồng bằng sông Cửu Long.
Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng.
Câu ca dao trên và các câu ca dao xưa ở đất phương Nam, đại loại như:
Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai.
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài,
Thương người ta xa xứ lạc loài tới đây
Tất cả đều nói đến xứ kinh kỳ Đồng Nai; Bến Nghé – Sài Gòn (hiểu là Chợ Lớn sau này) và Gia Định (hiểu là tỉnh Gia Định thuộc Lục tỉnh hay phủ Gia Định, thành Gia Định) đều không được xưng tụng, đều không nằm trong “danh sách” xứ đô hội. Điều đó có lý do lịch sử của nó.
Như ta đã biết, năm 1679, chúa Nguyễn cho 3.000 người Trung Quốc vào định cư ở Nam Bộ. Dương Ngạn Địch vào đồn trú ở Mỹ Tho, còn tường các châu Cao, Liêm là bọn họ Trần (Trần Thắng Tài và phó tướng Trần An Bình) “đem thuyền chạy vào cửa biển Cần Giờ, rồi lên đồn trú ở địa phương thôn Bàn Lăng, xứ Đồng Nai, khai phá đất hoang lập chợ phố thương mãi, giao thông với người Tàu, người Nhật Bản, người Tây Dương, người Bồ Đà. Thuyền buôn tụ tập đông đảo. Phong hóa Trung Quốc từ đấy bồng bột lan khắp Giản phố vậy (Giản phố, hiểu là Cù lao Phố, rộng ra là cả vùng Biên Hòa).
Cù lao Phố, còn gọi là Nông Nại Đại Phố, trở thành phố cảng, một trung tâm thương mại lớn của vùng đất mới vào cuối thế kỷ XVII. Song cái xứ “đại đô hội” ấy cũng là điểm nóng của sự tranh chấp quyền lực” 1747, đại gia Phước Kiến Lý Văn Quang nổi loạn mưu chiếm nơi đây là lãnh địa của mình và rồi sau đó là các xung đột của Tây Sơn và Nguyễn Ánh – nghiêm trọng nhất là biến cố 1776, Nông Nại Đại Phố bị tàn phá nghiêm trọng: “Chỗ này biến thành gò hoang; khi trung hưng người ta trở về, nhưng dân số không bằng một phần trăm lúc trước”
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Xét về khía cạnh nào đó, câu ca dao trên đã hiển thị “cái chết đã báo trước” của xứ đô hội Trấn Biên Đồng Nai. Nói cách khác, nó đã chỉ ra có 2 vùng đất đang “cạnh tranh” nhau để rủ rê người từ bên ngoài đến lập nghiệp, làm ăn, sinh sống!
Cù lao Phố xuất hiện như một cảng sông, sâu trong nội địa (cách biển khoảng 100 km) có được vị trí tối ưu là trung tâm tụ hội mang tính chất “chợ đầu mối” của khu vực được khai phá sớm dồi dào nông lâm sản. Nhưng rồi sau đó, công cuộc khai hoang tiến nhanh về miệt dưới, miền Tây Nam Bộ thì vị trí trung tâm của vùng đất mới đòi hỏi phải dời về Bến Nghé – Sài Gòn. Chiến tranh tàn phá Nông Nại Đại Phố đã đẩy nhanh tốc độ tàn lụi của nó và tăng tốc cho sự phát triển của phố thị Sài Gòn (hiểu là Chợ Lớn sau này) và tiếp đó, thành Gia Định (thành Bát Quái, thành Qui) được thành lập theo ý đồ chính trị cảu Nguyễn Vương (Nguyễn Ánh): Gia Định Kinh. Bến Nghé trở thành xứ thành thị: thành Qui và chợ nằm trên bến sông sát đó: Bến Thành (hiểu là chợ cũ, không phải chợ Bến Thành hiện nay, được thành lập hồi đầu thế kỷ này, 1903 – 1904). Đây là chợ chính của một hệ thống chợ. Từ đó, dòng sông Bến Nghé chạy về phía Tây liền với sông Bình Dương (nay có tên là rạch Bến Nghé) ăn xuống An Thông mà tục danh gọi là sông Sài Gòn – đường thủy nối xuống miền Tây đồng bằng sông Cửu Long. Chợ phố Sài Gòn, nằm trên bờ sông Sài Gòn, đã dần dần giành mất vai trò của Cù lao Phố; xã Thanh Hà ở Biên Hòa cũng bị làng Minh Hương thay thế. Cuối thế lỷ XVIII, Bến Nghé – Sài Gòn là một thành thị đô hội.
Đồng Nai – Gia Định, trong những năm cuối cùng của cuộc nội chiến, không bị ảnh hưởng trức tiếp của chiến tranh. Từ năm 1788, vùng đất này đã bước vào công cuộc xây dựng hòa bình. Thành Gia Định được xây theo kiểu thành Vauban và là cơ quan của Gia Định kinh với dinh thự, kho lẫm, cuộc chế tạo, xưởng đóng ghe thuyền, tàu chiến. Hệ thống đường sá, phố chợ được chỉnh đốn một bước qui mô. Thương cảng Bến Nghé thu hút tàu bè cảu thương nhân ngoại quốc đến buôn bán đông đảo. Chợ phố, bến cảng đã làm cho Bến Nghé – Sài Gòn (hiểu là Chợ Lớn) trở thành trung tâm chính trị, kinh tế cho toàn vùng. Toàn cảnh nơi đây là: “ Dân cư đông đúc; phố chợ san sát; nhà tường; nhà ngói lien tiếp cùng nhau (...) Tàu ghe hải dương đến buốn bán qua lại, cột buồn liền lạc, xưng la xứ đô hội, cả nước không đâu sánh bằng”. Một thương nhân người Anh, Finlayson, ghé đến Gia Định năm 1821 đã ngạc nhiên: “Không ngờ ở miền xa xôi này lại có một thành thị to và rộng như vậy! (...) Cách xếp đặt phố xá ở đây còn phong quang, thứ tự hơn nhiều kinh đô Châu Âu”
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
(Chạy giặc, Nguyễn Đình Chiểu, 1858-1861)
Trong thực tế, trước khi Pháp hạ thành Gia Định (1859), những yếu tố văn hóa phương Tây đã thâm nhập vào đời sống văn hóa của vùng này. Chúng thâm nhập qua sự gia tiếp với các thương nhân, các nhà truyền giáo, và đặc biệt là các chuyên gia kỹ thuật châu Âu được Nguyễn Ánh trọng dụng. Súng, đạn, tàu đồng, rồi thành Qui (xây 1790) làm theo kiểu Vauba do Puymanel vẽ kiểu là những thí dụ. Ngoài ra, trong đội ngủ quan chức, đã có người được đào tạo từ phương Tây. Tiêu biểu như Nguyễn Văn Học, người đầu tiên vẽ bản đồ qui hoạch thành Gia Định theo phương pháp vẽ bản đồ có tỉ lệ xích của phương Tây vào năm 1815...Tuy nhiên, sự thâm nhập của văn hóa phương Tây đối với vùng đất này thực sự trở nên mạnh mẽ, làm biến đổi về lượng lẫn về chất, là khi vùng đất này bị chiếm đóng và trở thành thuộc địa.
Sự thâm nhập của văn hóa phương Tây, vào buối đầu trong chừng mực nhất định được vua chúa nhà Nguyễn đồng tình, nhưng luôn luôn bị đối kháng, nhất là đạo Thiên chúa. Sự đối kháng với tôn giáo bị coi là “tả đạo” này càng ngày vượt khỏi mâu thuẫn tư tưởng-văn hóa để mang ý nghĩa chính trị:
Dân mà về đạo Tây rồi
Nước ngoài Tây lấy mý hồi nhọc lo
(Nguyễn Đình Chiểu: Dương Tử - Hà Mậu).
Tuy nhiên điều cần lưu ý là trong sự đối kháng chính trị đó vẫn luôn hàm chứa sự đối kháng văn hóa, kể cả ngay trong lúc công cuộc kháng chiến diễn ra quyết liệt:
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vừa hương, xô bàn đọc thấy lại thêm buồn:
Theo làm chi ở lính mã tà, ban rượu chát, phát bánh mì nghe càng them hổ
(Nguyễn Đình Chiểu: Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc).
Sự đối kháng với văn hóa, ca “văn hóa vật chất” lẫn văn hóa tinh thần của thực dân Pháp diễn ra trong tầng lớp sĩ phu yêu nước và nhân dân lục tỉn Nam Lỳ kéo dài mãi đến nửa đầu thế kỷ này dưới nhiều mực độ và dạng thái khác nhau và ngày càng trở nên suy yếu dần. Họ không chỉ đối kháng đạo Thiên chúa để bảo vệ bừa hương bàn độc, thờ tổ tiên mà cả việc không dung rượu chat, bánh mì, xà bông thậm chí không đi trên đường lộ do Tây đắp và đặc biệt là chống lại việc học chữ quốc ngữ La tinh.
Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu
Anh về anh học chữ nhu (nho)
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Đến khi vũ khí và sức mạnh của thực dân Pháp đã đè bẹp lực lượng yêu nước, cũng như đã tạo nên những biến đổi trong sự phát triển kinh tế - xã hội, kéo theo sự thay đổi trong văn hóa ở vùng đất này thì sự đối kháng vẫn còn tiếp túc dưới dạng xung đột giữa lối sống được coi là phong hóa truyền thống và lối sống tân thời. Tình hình này kéo dài suốt những thập niên đầu thế kỷ XX và một trong những biểu hiện dai dẳng của nó là những dạng thứ bảo thủ văn hóa của các phong trào tôn giáo cứu thế (messianism): Bửu Sơn kỳ hương, Tứ ân hiếu nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài...Trong thực tế, ở Sài Gòn – Gia Định xu hướng phổ biến là nỗ lực bảo vệ các tập tục cổ truyền, các dạng thức lễ hội củ thiết chế đình, chùa, miếu, võ, thiết chế văn hóa truyền thống của làng xã trong khi thiết chế văn hóa chính thống, một mặt bị coi là tàn tích của cựu trào, của người bản xứ ngoại đạo nên bị san bằng và mặt khác, nếu không bị thực dân xóa bỏ thì các đàn (Tiên nông xã tắc), miếu (công thần, miếu Văn Thánh, miếu Thành Hoàng...) đến (công thần của nhà Nguyễn) đã thực sự bị mất chỗ dựa thế quyền sản sinh ra nó nên cũng không còn điều kiện duy trì lâu dài.
Khu vực trung tâm Bến Nghé, king rạch được san lấp, dinh thự, công sở (Bưu điện, Pháp đình, dinh Thống đốc, tòa thị chính), nhà thờ Thiên Chúa giáo, đường sá, phố sá...được dựng lên. Thức kiến trúc thuộc địa tràn ngập trên mặt bằng hoang tàn của thành Gia Định bị phá hủy, và chùa chiền, đình miếu bị tháo dỡ (chùa Khải Tường, chùa Từ Ân, đình Tân Khai...) Tất cả nỗ lực để thực hiện việc hình thành “Ville de Sài Gòn” ở vùng Bến Nghé (quận 1) để làm thủ phủ cảu toàn Đồng Dương (và thiết lập phủ Toàn quyền tại Sài Gòn. Sắc lệnh của Tổng thống Pháp, 12-11-1887) đã làm thay đổi về chất bộ mặt của xứ đô hội Gia Định cũ. Khi người ta gắn cho thành phố này danh xưng hoa mỹ: “Hòn Ngọc Viễn Đông”, với nhiều chuyện đúng sai thì nó vẫn sống với các truyền thống của nó với những truyền thuyết về các anh hung chống Pháp mà máu của họ chưa khô trên mảnh đất này và với bao huyền thoại về một loại hình tượng về những người không ngán phúc Tây: Sáu Trọng, Cậu Hai Miêng,. Thỳ Thông Chánh...Và trong khói hương nơi đình miếu họ vẫn tôn xưng cựu trào và mơ ước có một minh quân xuất thế mà tiêu biểu là Hoàng đế Phan Xích Long (1913,1916).
Cùng với nỗ lực và khai thác thuộc địa là nỗ lực “khai hóa” dân bản xứ. Vào những năm cuối thế kỷ trước, Trường Vĩnh Ký, ngoài việc biên soạn các giáo trình để truyền bá ngôn ngữ - văn học Việt và Pháp, ông cũng đã viết Les convenances et civilites annamites (Phép lịch sự An Nam) nhằm chỉ vẽ cho các quang Lang Sa biết phong tục lễ nghĩa cảu con nhà An Nam để khỏi chỗ mích long nhau và “làm cho mẹ gà phải thương con vịt”. Ngược lại, chúng ta cũng thấy những sách chỉ dạy về lối sống và cách thức sống của người Pháp như Phép lịch sự Tây cho người An Nam dung của Jacque Lê Văn Đức (xuất bản 1914). Cuốn sách này trình bày khá tỉ mỉ về các phép tắc trong giao tiếp (chào hỏi, giới thiệu, cách bắt tay, sử dụng danh thiếp...), các cách sử dụng Âu phục, các đãi tiệc, sắp bàn ăn, cách dùng các loại rượu Tây, các sử dụng dao nĩa, các thức tiến hành và tham dự các ngày lễ tiệc gia đình và công cộng...Đây là cẩm nang cần thiết cho một bộ phận người Việt có quan hệ với Pháp. Thoạt đầu là từ đám bọn dọn bàn (bồi), các quan chức tân trào và sau đó là tầng lớp công chức, điền chủ và dần dần các nề nếp ấy trở nên thời thượng phổ biến trong tầng lớp trung lưu, lan rộng đến hang cai tổng, viên chức hội tề. Đặc biệt, từ những năm đầu thế kỷ này, phong trào Minh Tân đã công khai thúc đẩy công cuộc phát triển công thương và hô hào sống theo lối sống văn minh mới. Do đó, sự tiếp thu văn hóa Tây trở nên mạnh dạn hơn.
Về văn hóa, trên các báo Lục tỉnh tân văn, Nông Cổ Mín Đàm (lúc là cơ quan ngôn luận của phong trào Minh Tân) đăng tải nhiều bài hô hào cải cách, phong tục, cổ vũ phong trào đá bóng, luyện tập võ nghệ, đi Vũng Tàu tắm biển, chống thầy đám, việc sửa đổi ma chay, cưới hỏi, bài trừ cờ bạc, ác phiện, cổ xúy ăn Tết đơn giản và đòi nhà nước thuộc địa mở thêm trường học, dạy chữ Quốc ngữ La tinh, thử bỏ niêm luật thơ Đường...Ở các tỉnh lỵ nhất là Sài Gòn, kế đó là Mỹ Tho, nhà hang khách sạn mở ra. Điền chủ lục tỉnh, công chức kẻ mặc áo dài, khăn đóng, đi giày hàm ếch, người mặc âu phục, đội nón tây, thắt nơ, râu vuốt sáp, tóc hớt ngắn lui tới ăn uống thưởng thức các trò vui: “Nhạc tài tử xa xang có hát thuật xen kẽ”. Nếp sinh hoạt thay đổi: văn minh quán xá, uống cà phê, rượu chát đã thịnh hành thói quen phổ biến.
Hệ thống trường học Pháp – Việt phát triển, báo chí Quốc ngữ ra đời và ngày càng ra nhiều báo. Công nghiệp in từng bước phát triển cho ra đời hang loạt ấn phẩm tiếng Pháp và thơ, tuồng truyện, tích bằng chữ quốc ngữ La tinh. Tất cả những nổ lực đó đã thực sự làm thay đổi bộ mặt văn hóa ở vùng đất này bất chất những phản ứng biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau của xu hướng bảo thủ văn hóa truyền thống.
Lúc đầu thơ, tuồng, truyện, tích và cả hò, vè in ra đã đáp ứng thị hiếu của thời kỳ “quá độ” từ văn hóa Hán Nôm sang văn hóa quốc ngữ La tinh cảu công chúng chưa quen với khẩu vị mới. Song tro trong tầng lớp tri thức Tây học thực sự đã đổi mới thị hiếu thưởng ngoạn văn học nghệ thuật. Họ xem kịch Tây, chiếc bong câm, đọc tiểu thuyết ro6man và từ cuối thế kỳ XIX đã có những cây bút thử nghiệm về tiểu thuyết.
Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, xuất bản năm 1887 ở Sài Gòn, là tiểu thuyết đầu tiên nước ta viết bằng chữ quốc ngữ La tinh. Sau đó là Hoàng Tố Oanh hàm oan của Trần Thiện Trung (1910), Phan Yên ngoại sử tiết phu gian truân của Trương Duy Toản (1910) và kế đó là tiểu thuyết của Tân Dân Tử, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức, Hồ Biểu Chánh...chữ “roman” thấy in đầu tiên trên bìa cuốn Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu năm 1915, cụm từ “kim thời tiểu thuyết” (kim thời – hiểu là hiện đại), và sau đó thì có đủ loại tiểu thuyết trinh thám, lý tưởng, kiếm hiệp, nghỉa hiệp, lịch sử.
Nói chung, với sự phát triển của báo chí cùng với các thể loại văn học của nó cùng các loại ấn phẩm và tiểu thuyết đã thực sự là thay đổi về chất cảu văn học Nam kỳ. Cũng có thể thấy rằng văn chương bấy giờ còn mang dấu ấn của thể văn biền ngẫu, cách bố cục, kỹ thuật kể truyện còn theo kiểu chương hồi, tức theo lối truyện Tàu hơn tiểu thuyết Tây. Song không phải vì vậy mà phủ định sự ảnh hường của văn chướng Âu tây trong văn học quốc ngữ La tinh này trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Nhìn rộng hơn, từ cảng Sài Gòn, những thành tựu văn hóa kỹ thuật phương Tây đã đổ bộ lên bờ sông Bến Nghé mà giờ đây có tên là Sài Gòn – một thành phố ngã ba đường, vì nó đã nối được các luống thông thương chủ yếu với thế giới rộng lớn hơn bên ngoài với sự giao lưu không ngừng của những con người, những tư tưởng, những luồng tư bản, những hàng hóa...Chính vì vậy, mà nơi đây, thông qua những xung đột và những mâu thuẫn đã trở thành phòng thí nghiệm của sự tiến bộ và chịu gánh lấy những thách thức của tình trạng của thế giới hóa. Dù sao đi nữa thì nơi đây đã xuất hiện những cái đầu tiên của cả nước.
Các quán cà phê đầu tiên ở Sài Gòn “...Để thành lập một thuộc địa, người Anh bắt đầu bằng túi tiền, người Tây Ban Nha bằng một nhà thờ, người Pháp bằng một quán cà phê”. Trong thực tế, thực dân Pháp bắt đầu một quân y viện để chữa trị cho các thương binh của họ: theo đó, đã có cà phê căn tin xuất hiện ở đấy trước 1861. Theo tài liệu sách báo liệu sách báo thì có hai quán cà phê đều ra đời năm 1864.
Quán Café Lyonnais tọa lạc ở đường Gouverment, gần ụ chiến hạm Primauguet. Theo tên đường cũ này thì đó là đường Lý Tự Trọng, song có lẽ chính xác hơn là quán này tọa lạc ở đường Ngô Văn Năm hiện nay.
Quán Café de Paris (trong đó có Câu lạc bộ thương mãi) ở tại bến sông, góc đường số 16 (nay là đường Đồng Khời), chủ nhân là ông Bonneriuux. Quán này còn lưu lại vết đến năm 1905 tại đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), số 83, chủ nhân tên là Vital.
Nhà in đầu tiên ở Sài Gòn là Nhà in Impériale lập 1862, một chi nhánh của nhà in cũng tên bên Pháp. Trụ sở đặt ở góc đường Hai Bà Trưng – Nguyễn Du hiện nay. Đường Hai Bà Trưng xưa có tên là đường Impériale. Đến năm 1870, nhà in này trở thành Imprimerie Nationale. Đến nay, một cái biển nhà in thời đó còn bảo tồn là “Imprimerie de Mission – 1864-1951” ở bên trong nhà thờ Tân Định.
Tờ báo Tiếng Việt đầu tiên đó là tờ Gia Định báo ra đời ở Sài Gòn ngày 15-4-1865, do người Pháp là Ernest Potteau chịu trách nhiệm xuất bản và phát hành (theo nghị định 1-1-1865). Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng một kỳ vào ngày 15. Mục đích của tờ báo in bằng chữ Annam theo chữ cái La tinh này là “nhằm phổ biến trong người dân bản xứ những tin tức đáng cho họ quan tâm, và cho họ những kiến thức về những vấn đề mới có lien quan đến văn hóa và những tiến bộ về nông nghiệp...”. Báo xuất bản mỗi tháng một kỳ. Trường Vĩnh Lý là người viết báo Tiếng Việt đầu tiên ở nước ta.
Tiểu thuyết đầu tiên ở nước ta đó là Truyện thầy Lazaro Phiền của P.J.B Nguyễn Trọng Quản làm ra. S., J. Linage, Libraire e1diteur, Rue Catinat, 1887 – TDR, In-8, pp32. Đầu sách là bài đề tặng (tiếng Pháp) cho Diệp Văn Cương – bạn học của tác giả ở Alger; kế đến là bài tựa (quốc ngữ) đề ngày 1-12-1886. Ở bài tựa, tác giả nêu mục đích của việc sáng tác là: “Làm ra một truyện hầu làm cho kẻ sau coi là bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay, trước là làm cho trẻ con ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng: người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!”
Đây là tiểu thuyết viết theo hình thức tiểu thuyết phương Tây. Nội dung truyện: Thầy thông ngôn (L.Phiền) người Bà Rịa đã có vợ. Người vợ Việt của viên quan ba Pháp phải lòng thầy nhưng không được đáp ứng. Người phụ nữ đa tình này đã làm hai bức thư giả khiến thầy thông ngôn thành kẻ giết người. Cuối cùng thầy đi tu với long hối hận dày dò đến nỗi phải lâm bệnh. Trước khi qua đời, thầy nhận được thư thú tội của người đàn bà tội lỗi ấy (Theo Bằng Giang).
Từ điển tiếng Việt đầu tiên. Đó là cuốn Đại Nam quốc âm tự vị, cuốn từ điển tiếng Việt chữ quốc ngữ La tinh, của Huỳnh Tịnh Của, 1895.
Bộ từ điển này gồm hai tập: Tome I từ vần A đến L; Tome II từ vần M đến vần X. Ở trong bìa chính, có ghi dòng phụ chú: “Tham dụng chữ nho có giải nghĩa, có dẫn chứng, mượn 24 chữ cái phương Tây làm chữ bộ”. Tuy là sắp xếp theo thứ tự A, B, C...X, xong mỗi mục từ có cả chữ Hán và chữ Nôm; lại dẫn cả ca dao, ca trù, Chinh phụ ngâm. Kim Vân Kiều...để giảng giải, minh dụ. Bộ tự vị này, đến nay đã vượt ra khỏi công dụng cảu một bộ từ điển tiếng Việt mà là một thứ bách khoa thư về Nam Bộ.
Hát hình máy (chiếu phim)...đầu tiên ở Chợ Lớn – Sài Gòn. Tờ tuần báo Nam kỳ, số 50 (6-10-1898) đã đăng một quảng cáo:
Hát hình máy. Tại Châu Thành, Chợ Lớn (phía trước nhà quan Tổng đốc Chợ Lớn). Tối bữa nay và mỗi tối đúng 9 giờ. Ông D’Arc có hát hình máy hay quá sức.
Các tư liệu trên cho thấy buối “hát hình máy” ở Chợ Lớn vào tháng 10-1898 là buổi chiếu phim đầu tiên ở nước ta. Như vậy buổi chiếu phim này được thực hiện chưa đầy ba năm sau ngày an hem Lumière thực hiện được buổi chiếu phim đầu tiên tại Paris (28-12-1895)
(Theo Sâm Thương)
Đoạn phim quay đầu tiên. Tuần báo Nam kỳ số 81, ra ngày 18-5-1889 tường thuật nội dung buổi chiếu phin: “Trong mấy hình người đó thời ban đầu có một người đàn bà bẻ bông mà ngửi, đoạn hình xe lửa bên Tây chạy đến ghé nhà bán giấy, có bộ hành đông đảo lắm; hình xe lửa chạy vô đậu tại nhà máy giấy Chợ Lớn; hình hai người say rượu phá quán, có lính trấn thủ đến bắt, hình đào Nhật Bổn ca hát...cũng nhiều hình thức khác nữa xem thật khoái chí lắm”. Chi tiết “hình xe lửa chạy vô đậu ở nhà máy giấy Chợ Lớn” đã chỉ ra đó là đoạn phim quay tại xứ ta. Có thể là đoạn phim đầu tiên.
Đầu thế kỷ XX, trong khi các hình thức diễn xướng dân gian và truyền thống (Hò, hát, nói vè, nói thơ, hát bội...)vẫn còn được duy trì thì nhạc cổ đã vượt ra khỏi sự diễn tấu nghi lễ và khuôn khổ tứ phú phong lưu (cầm, kỳ, thi, họa) của tầng lớp thượng lưu cũ đã trở nên một sinh hoạt âm nhạc bình dân hơn nhiều: ca nhạc tài tử. Ca nhạc tài tử phổ biến trong một tiệc vui chơi giỗ chạp, cưới xin và trở thành một tiết mục giúp vui cho khách ở nhà hàng, khách sạn. Nó không chỉ dừng lại ở việc tạo ra những bài bản mới, hình thức nhạc thính phòng mà còn phát triển về mặt biểu diễn. Ca ra bộ ra đời và sau đó không lâu, nó tiến thu những mới mẻ của kịch Tây, phim câm, kế thừa hát bội để sản sinh một loại hình ca kịch mới – ca kịch cải lương.
Ca kịch cải lương nhanh chóng phát triển mạnh mẽ khắp Nam kỳ rồi sau đó, nó đã oanh liệt giành lấy địa vị của hát bội, loại hình sân khấu đã từng thống trị lâu đời trên mảnh đất Đồng Nai – Gia Định, cả xứ Đàng Trong.
Ca kịch cải lương mới ra đời tất nhiên nó phải theo tuồng tích của hát bội, tuồng Tàu (hát Quảng, hát Tiều), truyện thơ, truyện dân gian và kế đó là kịch Tây: Bằng hữu bịnh nhung (Frère d’arme), Sắc giết người (Atlantide), Gía trị và danh dự (Le cid), Tơ vương đến thác (Ladameaux camellias)...Nhưng đến những năm 1930, đã xuất hiện các kịch bản viết về đề tài xã hội Việt Nam (Tội của ai, Khúc oan vô lượng, Tứ đổ tường, Vó ngựa truy phong...) và thêm đó là các kịch bản dựa vào truyện cổ Ấn Độ, Ai Cập, La Mã. Thế là có đủ loại: tuồng ta, tuồng Tây, tuồng Tàu, tuồng Ấn, tuồng “hương xa”, tuồng kiếm hiệp...Âm nhạc và diễn xuất cải lương cũng cơ động. Trong cải lương tuồng Tàu vai trò bộ gõ còn khá tích cực, diễn xuất chịu ảnh hưởng Hồ Quảng. Còn trong cải lương tuồng xã hội thì nhạc phương Tây thay thế cho bộ gõ, các bài hát Tây (Pouet puet, Marinellea, Tango Mystérieux...) cũng được đưa vào. Sự dung nạp không định kiến của cải lương có thể coi là sự lai tạp, nhưng đứng ở một khía cạnh khác, với cái nhìn cởi mở và tích cực hơn; đặc điểm này thực sự có ý nghĩa tiêu biểu của văn hóa Nam bộ - một giao điểm luôn mở cửa đón nhận các làn song tứ phương kể từ buổi đầu khai phá đến nay.
Các cục bướu văn xã mà thoạt nhìn có phần lai tạp kỳ quái ấy có thể tìm thấy nhan nhãn ở mọi lĩnh vực, trong các dạng thức văn hóa, nghệ thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, các cục bướu này về sau lại được lồng ghép vào đời sống dân tộc và không ít trường hợp đã thành công bởi vì chúng đã đáp ứng được một số xu thế và yêu cầu phát triển nào đó.
Những gì trình bày trên hoàn toàn không có ý định phủ nhận sự tự thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc Việt của văn hóa Gia Định mà chỉ muốn hướng sự chú ý về sự tiếp thu các dòng văn hóa bên ngoài. Chính vì vậy, đến đây cần thiết phải nêu ra những đặc điểm chính yếu cua văn hóa Gia Định để thay cho lời kết:
1. Như một tất yếu của lịch sử và của điều kiện địa lý, vùng đất này trở thành nơi hội tụ cảu nhiều dòng chảy văn hóa. Nếu buổi đầu, dòng chảy văn hóa chính là Thuận Quảng thì không muộn hơn là bao là sự giao lưu với văn hóa Hoa, Khmer và sau đó là văn hóa Hoa, Khmer và sau đó là văn hóa Âu Tây. Đến đầu thế kỷ XX, văn hóa Gia Định đã trở thành một phúc thể đa nguyên, mang tính chất baroque rõ rệt. Cá tính văn hóa vùng đất này, do đó có thể nói một cách khái quát là không có gì riêng của nó hiểu theo nghĩa có thâu hóa tất cả những gì từ mọi nơi khác hội tụ về đây.
2. Một yếu tố khác là do nơi đây là một giao điểm động, luôn tiếp xúc với cái mơi nên hầu như không một dạng thức văn hóa, một hình thức nghệ thuật, một nhu cầu (và cả thị hiếu) văn hóa nào tồn tại nguyên dạng trong một thời gian nhất định. Chúng luôn luôn và nhanh chóng đổi mới để tạo nên một dạng thức mới đáp ứng nhu cầu (và thị hiếu) của từng thời đại. Từ nhạc lễ đến ca nhạc tài tử, từ hát bội đến ca kịch cải lương là những ví dụ, và những biến đổi về âm nhạc, nghệ thuật diễn xuất trong cải lương là những ví dụ ở cấp độ chi tiết hơn. Ngay cả hát bóng rỗi, một hình thức diễn xướng tổng hợp của nghi lễ thờ Bà vốn có phong cách và làn điệu ổn định song khi hát bội còn thời thượng, hát bóng rỗi cũng đã giao phối với hát bội để sản sinh ra chặp bóng tuồng Địa Nàng và rồi sau đó, nó tiếp thu cả Hồ Quảng, ca nhạc cải lương cả tân nhạc và nhạc ngoại quốc để cho ra đời loại Địa Đàng kim thời. Tương tự, nhạc lễ thu nhận một cách dễ dàng giai điệu bài Lòng mẹ của nhạc sĩ Y Vân để diễn tấu trong lễ Sinh từ cúng đình, cũng như nhạc lễ đám ma sử dụng nhiều giai điệu của các ca khúc trữ tình hiện đại trong nước và ngoài nước để diễn tả hầu tỏ rõ “sự tử như sự tồn”...Hiện tượng “tân cổ giao duyên” như vậy phổ biến trong hầu hết mọi loại hình văn hóa – nghệ thuật, kể cả trong các dạng thức văn hóa vật chất.
Hai đặc điểm trên có liên hệ nhân quả với nhau và trở thành một đặc điểm cơ bản trong hướng vận động của văn hóa Gia Định từ trước đến nay và có thể trong cả viễn cảnh tương lai. Ngoài ra, cũng có thể kể thêm một đặc điểm khác có liên quan hữu cơ với hai đặc điểm nêu trên là tính thời trang và tính hiếu kỳ (exotique) trong thị hiều văn hóa của người dân đô thị.
Nguồn: my.opera.com