1. NHỮNG CẤM KỴ ĐỐI VỚI VIỆC LY HÔN
Thời xưa không có luật hôn nhân, tục lấy lễ (lý) làm luật; về lễ của hôn nhân, người xưa có cách nói thất xuất, tam bất khứ (bảy trường hợp đuổi đi, ba trường hợp không được đuổi đi). Theo ghi chép trong Trung Quốc lễ tục học cương yếu, thì “‘Đại đới lễ ký, thiên Bổn mệnh’ có thất xuất: 1. Không nghe lời cha mẹ; 2. Không có con; 3. Dâm đãng; 4. Đố kỵ; 5. Có ác tật; 6. Lắm lời; 7. Trộm cắp. Và ngược lại thì có tam bất khứ, gồm: 1. Không nơi nương tựa, trú thân; 2. Đang để tang ba năm; 3. Trước cơ hàn, sau phú quý”. Trong xã hội phụ quyền, thì thất xuất hoàn toàn có thể khiến cho người nam nắm được toàn quyền ly hôn một cách hợp pháp. Ngay đến cách nói tam bất xuất thì trên thực tế cũng chỉ hữu danh mà vô thực. Người Hán và một vài tộc người khác đều kỵ hôn nhân bị tan vỡ, vợ chồng phân ly. Họ cho rằng, chồng vợ hiệp hòa đến trăm năm đầu bạc, kết bạn suốt đời ấy mới chính là cuộc hôn nhân hạnh phúc, mỹ mãn. Nếu mà nửa đường trắc trở thì cho rằng mình sẽ bị mất mặt, là một chuyện rất đáng nhục. Điều này rất quan trọng đối với phụ nữ. Thời xưa, việc ly hôn đều hoàn toàn nằm vào sự tử tế hay ác độc của nam giới. Ly hôn được gọi là cho vợ nghỉ hưu, điều đó càng nói lên rằng, địa vị của phụ nữ trong xã hội thời xưa là rất thấp. Vì vậy, trên thực tế thì “thất xuất” đã trở thành tín điều trong tất cả mọi hành vi của người phụ nữ sau hôn nhân, phải cẩn trọng từng ly từng tý, nhằm để tránh phạm phải cấm kỵ. Thời xưa, trong hôn nhân của người Duy Ngô Nhĩ thì chỉ cần người đàn ông giận và nói câu tháp lạp khắc (ý là thôi vợ) thì điều đó cũng ngang với lời tuyên bố ly hôn, hai vợ chồng sẽ không thể ở bên nhau nữa. Nếu như muốn khôi phục lại quan hệ vợ chồng thì phải thỉnh người tuyên lễ hoặc người tụng kinh đến để tụng. Nếu người nam nói tháp lạp khắc đến lần thứ ba, thì có nghĩa là không thể khôi phục hôn nhân lại được nữa.
Sau khi ly hôn, người phụ nữ không những bị cha mẹ chỉ trích nghiêm khắc, mà trong xã hội, cô ta cũng bị kỳ thị, bà con hàng xóm đều cấm kỵ không để người đàn bà ly hôn bước vào trong sân nhà. Đài Loan cũng cấm kỵ ky hôn, kỵ viết giấy ly hôn trong nhà, mà thường là được viết ở trong nhà hoang chùa tạnh. Ngạn ngữ có câu “Trên mảnh đất thôi vợ, ba năm không mọc cỏ”. Người Đạt Oát Nhĩ cho rằng, ly hôn là một chuyện rất xấu, nếu như người nam nhất quyết phải ly hôn, thì cũng phải tiến hành nghi thức ly hôn. Nghi thức này sẽ do nhà bên mẹ ruột chủ trì, người chồng phủ phục dưới đất, người vợ bước qua cổ của anh ta, sau đó dùng vải trắng buộc lên đầu ông táo và lên ống thông khói, tượng trưng cho người chồng đã chết, như thế mới được xem là ly hôn có nghi lễ. Người ta dùng hình thức ly hôn này để giải trừ những điều bất hạnh do việc ly hôn mang lại.
2. NHỮNG CẤM KỴ KHI TÁI GIÁ
Tục hôn nhân của người Trung Quốc thời xưa cho phép người đàn ông lấy vợ lại, nhưng lại cấm kỵ phụ nữ tái giá, gọi là “Chồng có thể tái thú, vợ không tiếng hai chồng”. Người nam khi lấy vợ kế, thông thường có nguyên nhân là không có con để chăm lo dòng hương hỏa. Nếu đã có con rồi mà lấy thiếp thì cũng bị miệng đời dị nghị. “Trung Quốc lễ tục học cương yếu” từng nói: “Có con mà nạp thiếp, nhiều người sẽ chê cười, cho rằng đó không phải là đạo tề gia”. Nhưng thời xưa, trong xã hội thì luôn có những người đàn ông chê vợ mình đã lớn tuổi, dung mạo xấu xí nên phải lấy thiếp. Đàn ông tái thú, tục gọi là có mới nới cũ, là phụ tình lang. Đàn ông người Hách Triết kỵ lấy đàn bà đã bị bỏ (ly hôn), gọi là “không tìm lấy vợ của người còn sống”. Đối với người Duy Ngô Nhĩ, đàn bà nếu muốn cải giá thì phải trải qua thời kỳ chờ đợi là ba tháng lẻ mười ngày hoặc sáu tháng lẻ mười ngày. Khi ly hôn, nếu người đàn ông mà nói là “tháp lạp khắc thì thời gian chờ đợi là ba tháng mười ngày; nếu người đàn ông mà nói ô kỳ tháp lạp khắc thì thời gian chờ đợi là sáu tháng lẻ mười ngày. Khi ly hôn, nếu người nữ đang mang thai thì cần phải đợi sau khi sinh con được bốn mươi ngày mới được phép cải giá, con cái được sinh ra ấy sẽ thuộc về bên chồng cũ.
Hầu hết các tộc người Trung Quốc đều cấm kỵ không lấy góa phụ. Chồng chết thì gọi là góa. Tục cho rằng, âm hôn của người chồng luôn đi theo bên cạnh vợ mình, nếu có người đàn ông nào lấy phải thì sẽ bị âm hồn ấy là sùng. Người ta lại cho rằng, những người lấy góa phụ thì khi chết đi, xuống âm gian sẽ tranh đoạt người đàn bà ấy với người chồng cũ. Vì vậy, dân gian đại kỵ việc lấy góa phụ. Nếu như đàn ông góa vợ mà tục huyền (tái thú) thì không kỵ góa phụ, vì cả hai đều ngang nhau, vận mệnh tương đồng. Người Hán kỵ lấy góa phụ thân gần, vì e mắc phải tội loạn luân. Thời xưa, các tộc người Miêu, người Môn Ba, người Cảnh Pha đều có chuyển phòng chế, không kiêng kỵ với góa phụ thân gần, thường thì anh chết, em trai sẽ lấy chị dâu cuả mình; em trai chết thì anh lấy em dâu của mình. Ở tộc người Môn Ba, giữa anh em cùng cha cùng mẹ và anh em họ hàng cũng có thể chuyển phòng nhau, nhưng phải được sự đồng ý của bên người nữ, nhưng phải qua hai năm sau khi phát táng thì mới được chuyển phòng. Giữa những người không cùng lứa (vai vế), thì cấm kỵ có sự thay đổi cho nhau.
Góa phụ cải giá, thời xưa được gọi là tái tiếu, nghĩa là cử hành thêm một lần tiệc rượu nữa, hoàn toàn không mang ý cấm chỉ. Trong lịch sử, những ví dụ về chuyện góa phụ cải giá cũng rất nhiều, bất kể là trong chốn cung đình hay trong dân gian, người ta đều cho phép góa phụ cải giá. Nghe bảo rằng, vào thời Tùy Văn đế đã từng có lệnh cấm thê thiếp của quan từ hàng cửu phẩm trở lên không được phép tái tiếu. Nhưng trên thực tế, cả quan lẫn dân đều không bị trói buộc gì bởi lệnh cấm này, thậm chí là đến đời Bắc Tống thì cũng vẫn là như thế. Nhưng sau khi học thuyết lý học của Trình, Chu hình thành thì trong dân gian đã bắt đầu có kiêng kỵ, cho rằng “chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là chuyện lớn”. Những tư tưởng kiểu “Theo một chồng đến cuối đời”, “ngựa hay không ăn cỏ rủ lá, gái ngoan không gả cho hai chồng”, “ngựa hay không thắng hai yên, liệt nữ không gả hai chồng” càng trở nên mạnh mẽ, ngày càng cho rằng góa phụ mà tái giá thì đó là hành vi đại nghịch bất đạo. Do vậy mà khi góa phụ cải giá, thì họ gặp phải rất nhiều cấm kỵ, đồng thời, trên phương diện tập tục thì mỗi nơi còn có những sự khác biệt nhau khi có việc hôn nhân giá thú.
Ở vùng Giang Tây, Giang Nam, người ta xem tái tiếu là một chuyện xấu hổ, khi góa phụ tái tiếu thì chỉ được vào cửa bên, cửa sau hoặc là vào một lỗ khoét ở tường, mà không được vào cửa chính, cửa giữa, khi gả thì phải tiến hành vào ban đêm, không được dùng kèn trống. Nếu như để người ta phát hiện, thì mọi người sẽ cho rằng đó là điềm không lành, có người còn mắng vài tiếng để phá giải. Người Ngạc Luân Xuân có tập tục rằng, nếu như góa phụ đã có con trai, thì thường là không được tái giá. Nếu như muốn tái giá thì cũng phải nuôi dưỡng đứa con trai cho đến khi khôn lớn, thành tài. Nếu nhà mẹ ruột đồng ý để người đàn bà góa ấy bước thêm bước nữa, mà người nhà của người chồng cũ không đồng ý, thì nhà mẹ ruột sẽ phải cướp hôn. Chỉ cần cướp được cột tiên nhân (âm trạch trong ngôn ngữ Ngạc Luân Xuân và ngôn ngữ Ngạc Ôn Khắc, có nghĩa là nơi che ánh mặt trời, là một loại màn buông mang tính di động của tộc người săn bắn phương Bắc Trung Quốc), thì nhà người chồng cũ sẽ không còn quyền cưỡng bức giữ người đàn bà ấy lại. Tộc người Triều Tiên cũng kỵ góa phụ tái giá, vì cho rằng như thế là không trinh tiết, người cải giá luôn bị kỳ thị. Ở tộc người Hán ở Sơn Đông, nghi thức lấy góa phụ làm vợ cũng khá đơn giản, không kèn trống, không đón rước. Nghênh thân (đón dâu) thì chỉ dùng xe chứ không dùng kiệu, tục gọi là kéo cuộc hôn nhân sau.
Trong dân gian vùng Đài Loan, góa phụ tái giá cũng kỵ không được ngồi kiệu từ nhà mẹ ruột như cô dâu mới, mà phải đi bộ, đi đến nữa đường mới được lên ngồi kiệu; có nơi thì góa phụ phải cởi một chiếc áo mà mình thường mặc vứt bỏ tại nơi lên ngồi kiệu, sau đó mới dám lên ngồi trên kiệu. Nếu không làm như thế thì linh hồn của người chồng cũ sẽ theo góa phụ đi đến nhà của người chồng mới, đó là điềm không lành. Dụng ý của việc góa phụ đi bộ một đoạn đường trước khi bước lên kiệu là để cho linh hồn của người chồng cũ bị lạc, cho rằng vợ của anh ta đã đi làm việc gì đó rồi. Sau khi cô gái đã bước lên kiệu giữa đường thì linh hồn người chồng cũ cho dù là có muốn tìm theo thì cũng không có cách nào tìm ra cô ta được. Vứt chiếc áo cũ, cũng chính là để linh hồn người chồng cũ không nhận ra mình. Đối với người Choang ở Quế Trung, trong tuần trăng mật mà người chồng chết, thì gọi là uyên ương quả (chim uyên ương lẻ bạn); nếu người chồng không bị bệnh mà chết thì gọi là đoạn kiều quả (gãy cầu lẻ bạn). Do những trường hợp là hoàn toàn khác nhau, nên những tập tục về đàn bà góa tái giá cũng khác nhau. Khi người đàn bà góa mà cải giá, khi đi ra bên ngoài thì kỵ không được chải đầu, trang điểm; vào ban đêm thì một mình lặng lẽ đi từ cửa sau ra, đến nửa đường thì phải có người đi hướng về phía cô ta, bắn súng và hét rằng: “Không cho nó đi theo, bắn chết nó, bắn chết nó!”, ý là để đuổi linh hồn của người chồng cũ đi. Sau đó thì áp tống cô ta như áp tải phạm nhân đi đến nhà người chồng mới. Khi “uyên ương quả” cải giá, thì đầu tiên là vào lúc nửa đêm canh ba đi đến lều cỏ trong rừng sâu núi vắng để tránh người chồng cũ với thời gian là bảy bảy bốn chín ngày, sau đó mới đến sống ở nhà người chồng mới. Khi đoạn kiều quả tái giá, thì trước tiên là phải đến nơi hoang vắng ở ba đêm, mỗi tối đều phải ôm một gốc cây to nhiều lần, ý là cô ta khắc mộc, và như thế thì sẽ không khắc người nữa. Cây đại thụ mà đã bị người đàn bà đoạn kiều quả ấy ôm qua thì mọi người không được chặt dùng.
Ở một vùng đất Thấm Dương Hà Nam, vào thời xưa, khi người Hán lấy sương phụ (gái góa) thì cũng lấy vào lúc trời chạng vạng hoặc vào ban đêm. Kiệu mà sương phụ ngồi là kiệu không có nóc, chung quanh không có vải che, có người còn ngồi trên chiếc ghế lớn hoặc ngồi ngược trên chiếc bàn vuông. Nơi lên kiệu (hoặc ghế, bàn) đều là ở ngã tư đường bên ngoài thôn, không dùng trống nhạc, không đốt pháo. Khi hạ kiệu (ghế, bàn), hai tay bưng một đấu lương thực, đi vòng qua cây chày, hoặc đi vòng qua cối xay, vòng qua bàn mài. Sử dụng phương pháp này là nhằm để linh hồn người chồng cũ không theo quấy rối nữa. Sau khi sương phụ tái giá thì cấm không được đến nơi ở của người chồng cũ, ngạn ngữ có câu: “Góa phụ về phòng cũ, nhà bại sản người vong mạng”. Đối với người Hách Triết thì góa phụ cải giá không phải bị kỳ thị, chỉ cần để hết tang cho người chồng cũ thì có thể cải giá. Xe rước dâu hay thuyền rước dâu đều không căng vải bạt màu, nghi thức cũng rất đơn giản. Trên đường đi đến nhà đàng trai mà gặp phải cây đại thụ thì phải ôm cây một hồi, người ta cho rằng, làm như vậy thì có thể tránh giải được tai nạn, không làm hại chồng nữa, và sống nửa cuộc đời còn lại một cách tốt đẹp. Góa phụ người Tích Bá phải để tang chồng ba năm, trong thời gian ba năm ấy thì không được cải giá.
Nguồn: 鴻宇2004:禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社
(Hồng Vũ 2004: Cấm kỵ - Văn hóa dân tục Trung Quốc. NXB Xã hội Trung Quốc)