Di chỉ thành Mân Việt nằm ở một đỉnh đồi thoai thoải, mặt thành nhìn xuống dòng sông Mân lượn mình giữa những ngọn núi cao vót xung quanh. Thành cổ giờ chỉ còn là một khu di chỉ hoang sơ, trên đó người ta cho dựng lại chiếc cổng thành và xây Bảo tàng Mân Việt vương.
Đi vào cổng chào mới xây dựng khoảng 300 mét, một cánh đồng hoang hiện ra trong tầm mắt, băng qua cánh đồng hoang ấy, ở phía tay trái là một quả đồi thấp. Bóng dáng của bức tường màu nâu đỏ hiện ra, tôi đoán ngay đó là khu thành cổ.
Thành cổ có chiều dài nam – bắc 860 mét, đông – tây rộng 550 mét, tổng diện tích 48 vạn mét vuông. Trung tâm thành là cung điện Mân Việt vương nằm trên đỉnh đồi, từ cổng ngoài vào cung điện phải qua ba lớp thành bảo vệ:
Theo từng bậc đá, chúng tôi lên vòng thành thứ hai (Đông Thành Môn). Tại đây, nhiều vết tích của các công trình kiến trúc cổ vẫn còn ẩn hiện:
Cả khu thành cổ rộng lớn không tìm thấy một bóng người, ngoại trừ chị lao công này:
Dọc con đường lên đỉnh, những tảng đá ghi lại dấu vết người xưa này được dựng lên để nói với hậu thế rằng “chúng tôi đã từng ở đây!”:
Đi khoảng 500 mét, tôi đến khu vực trung tâm thành. Từng bậc đá nhấp nhô cao dần dẫn tôi lên đỉnh – nơi xưa kia là Cấm Thành:
Trên đỉnh, nơi trang trọng nhất nhìn xuống dòng sông Mân ở phía đông là điện Mân Việt vương:
Xung quanh điện Mân Việt vương, một vài công trình phụ như phòng ở, giếng nước hiện vẫn còn dấu vết:
Vài nét về Mân Việt
Thời Việt vương Câu Tiễn xưng bá (giữa thiên niên kỷ thứ I trCN), đất Mân chưa được sách sử Trung Hoa ghi chép. Người phương Bắc biết đến Mân Việt từ thời Tây Hán, song Mân Việt từng có quá trình lịch sử lâu dài của mình từ thời thượng cổ. Sách Sơn Hải Kinh (thiên Hải Nội Nam Kinh) viết “Đất Mân ở vùng biển” (Mân tại hải trung闽在海中), còn cuốn Chu Lễ (thiên Chức Phương Thị 职方氏) cũng có ghi chép về “Thất Mân” (七闽7 tộc / vùng đất Mân). Hứa Thận trong Thuyết Văn Giải Tự thì giải thích “Mân, Đông Nam Việt”. Rõ ràng, Mân là tên gọi chung của cộng đồng người Việt đất Mân, có lịch sử ít nhất là đầu thiên niên kỷ 1 trCN (thời Chu ở Trung Hoa). Về không gian, Mân Việt được cho là vùng đất chủ yếu là núi non nay thuộc toàn bộ tỉnh Phúc Kiến và phần phía đông tỉnh Giang Tây Trung Quốc. Vào đầu thời Tây Hán ở Trung Quốc, dân số Mân Việt vào khoảng 280 – 300 ngàn người.
Về nguồn gốc Mân Việt, giới học giả còn tranh luận các thuyết sau: (1) giống như Đông Âu, dân Mân Việt là hậu duệ của Vu Việt, song thuyết này không có căn cứ vì cuốn Chu Lễ đã từng nhắc đến Mân Việt rồi. (2) dân Mân Việt là tập thể hỗn hợp giữa người bản thổ và các nhóm người Việt từ bên ngoài vào, theo đó người Mân bản thổ và người Việt khác chủng tộc, hỗn dung nhau thành Mân Việt; hai là Mân và Việt là hai chi lưu của Bách Việt, cộng sinh với nhau hình thành. (3) thuyết Mân Việt là cư dân người Việt bản thổ phát triển mà thành. Chỉ có thuyết thứ ba là có cơ sở nhất.
Đầu tiên, trên toàn vùng Mân Việt phát hiện nhiều di chỉ có đồ gốm cổ mang hoa văn kỷ hà của người Việt cổ. Chẳng hạn di chỉ Đàm Thạch Sơn (昙石山) ở Mân Hầu, di chỉ Đông Trương (东张,nay thuộc Phúc Kiến) đều phát hiện nhiều loại gốm nung, gốm men mang hoa văn kỷ hà có niên đại ít nhất vào khoảng 1300 trCN. Thứ hai, dân Mân Việt cổ cũng có tục cắt tóc xăm mình từ trước khi dân Vu Việt chạy loạn vào. Sách Hán Thư (thiên Nghiêm Trợ Truyện) có ghi Hoài Nam Vương thời Hán Vũ Đế tâu vua rằng dân Mân Việt có tục cắt tóc xăm mình, không thể cưỡng chế bằng luật pháp Hán triều, dân ở đó đã thịnh đạt từ thời Hạ - Thương – Chu phương Bắc. Cư dân Mân Việt vùng núi Ngũ Di ở Mân Bắc có tục chôn cất người chết bằng quan tài hình thuyền. Trình độ sản xuất của Mân Việt cổ nói chung lạc hậu hơn so với các vùng khác cùng thời kì, kinh tế dựa vào đánh bắt cá và săn bắt là chủ yếu.
Theo các sách sử thời Hán, Mân Việt đóng đô ở Đông Dã, song không ai có thể xác định Đông Dã ở đâu dù có nhiều nhận định cho đó là vùng núi phía bắc đất Mân. Song các phát hiện khảo cổ cho thấy ít nhất vào khoảng thế kỷ II TCN, người Mân Việt đã xây dựng thủ đô tại núi Vũ Di bên cạnh dòng sông Mân lịch sử. Thời Tần, Tần Thủy Hoàng chinh phục Giang Nam, “ép vua Mân Việt hạ cấp thành “quân trưởng””, song thực sự Mân Việt và Đông Âu thời bấy giờ vẫn là các quốc gia độc lập. Cuối thời Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc, Mân Việt cùng các nước phương Nam nổi dậy chống Tần, ủng hộ Sở, sau lại phục Hán. Lưu Bang lên ngôi phương Bắc, phong vua Mân là Vô Chư là Mân Việt Vương, đóng đô ở Vũ Di, song không có triều cống gì cho Hán triều. Cần khẳng định một thực tế rằng, đến giữa thời Hán, Trung Quốc vẫn chưa thực sự làm chủ đất Mân. Mâu thuẫn Mân Việt – Hán ngày càng gay gắt, Hán triều luôn tìm mọi cách thu phục. Cùng thời, Mân Việt – Đông Âu có chiến tranh, Hán triều ủng hộ Đông Âu, chuẩn bị làm bàn đạp đánh Mân Việt. Ngay lúc đó, Nam Việt Triệu Đà – vua nước Nam Việt vùng Lĩnh Nam qua đời, vận nước yếu, Hán triều chuyển quân thu phục Nam Việt nên tạm thời không dấy binh ở đất Mân. Mãi đến năm 110, Hán Vũ Đế phái 4 cánh quân tiến vào đất Mân, Mân Việt mất. Hán triều thực hiện chính sách di dân, bắt buộc một lượng lớn dân Mân Việt bắc tiến định cư vùng Giang Hoài và cho người Hán vào ở lẫn đất Mân. Nhưng đất Mân vốn là vùng núi non hiểm trở, quá trình Hán hóa dân Việt tại đây diễn ra chậm chạp. Vùng Bắc Phúc Kiến mãi đến thời Tam Quốc mới bắt đầu có người Hán vào ở, qua quá trình dung hợp văn hóa với cư dân Mân Việt địa phương dần phát triển thành hệ dân Hán nói tiếng Mân Bắc hiện cư trú vùng bắc Phúc Kiến. Ngày nay, cư dân nói tiếng Mân Bắc (Phúc Kiến) vẫn gìn giữ được một lượng tố chất văn hóa Mân Việt xưa ở mức độ cao.
Nguồn: tác giả, tháng 7/2008