Ra khỏi ga xe lửa, cái đập vào mắt tôi là thành phố Mịch La tĩnh mịch. Đường sá vắng ngắt, xa xa mới gặp một bóng đèn đường leo lét. Hàng quán tuy có san sát nhau nhưng chưa đến 8 giờ đêm mà hầu hết đều im ỉm cửa đóng then cài. Loay hoay mãi cuối cùng tôi cũng tìm được một chỗ trọ qua đêm.
Ga Mịch La tuy bề thế nhưng heo hút Đường phố Mịch La không một bóng người
9 giờ sáng, chuyến xe buýt cũ kỹ đầy khói bụi đưa tôi rời thành phố nhỏ men theo bờ đê ven dòng Mịch La về với cố hương danh thần Sở quốc. Bóng dáng phố thị khuất xa dần, dáng con đê dài hun hút dần hiện hình trước mặt. Một bầy trâu nước đến hàng trăm con đang nhởn nhơ gặm cỏ ngoài bãi bồi. Đây đó mấy chú mục đồng kẻ ngồi người đứng cao thấp lô nhô. Suỵt, cảnh đồng quê Mịch La êm đềm bỗng thật gần gũi.
Xa xa trên bãi bồi, từng đàn trâu nhởn nhơ gặm cỏ Một bến nước đìu hiu..
Cuối con đê dài là một bến nước đìu hiu và một chiếc phà lặng lẽ. À, con sông Mịch La đây rồi! Nó nhỏ hơn những gì tôi tưởng. Có thể bây giờ là mùa cạn nên tôi ước mặt sông rộng chưa đầy 40 mét chiều ngang. Chính chiếc phà cỏn con bên bến nước hoang sơ này càng làm tôi da diết nhớ quê nhà miền Tây êm ả sau những tháng năm dài lang thang trên đất khách.
Rời chiếc phà, tôi cuốc bộ lên bờ, rẽ vào hướng chỉ dẫn trên bảng chỉ đường. Con đường dẫn vào miếu Khuất Nguyên phủ đầy bóng mát cây xanh. Từng bậc đá nhấp nhô cứ cao dần đưa tôi bước lên đỉnh đồi trong không gian dịu mát tiếng chim. Không một mái nhà, không một bóng người, mấy chú ve sầu cũng kịp tranh thủ gọi hè ngoài đầu ngõ. Cái cảm giác cô đơn chạy dài trên sống mũi người lữ khách xa nhà.
Rồi thì cổng miếu cũng hiện ra. Chiếc cổng quay ra bờ sông Mịch La, ở đó có một tấm bia đề rằng nơi đây năm 278 trCN Khuất Nguyên đã trẫm mình vào dòng nước siết. Cổng miếu dường như vừa được tân trang nên không còn nét cổ kính như tôi nghĩ ban đầu. Tôi quyết định bỏ vài chục tệ vào miếu, may mà lúc đi còn nhớ mang theo thẻ thư viện để được giảm đi một nửa giá vé, chứ nếu không thì phải lãnh đủ nguyên phần!
Miếu Khuất Nguyên là một quần thể kiến trúc nhiều điện thờ xoay quanh một khoảng sân vuông ở giữa (kiểu tứ hợp diện có nhiều lớp phòng xung quanh), được xây dựng trên một phần quả đồi. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được thể hiện trang trọng trên từng tấm bia đá lớn, từng bức hoành phi, từng bức tranh vẽ muôn hình vạn trạng. Bước vào giữa sân, cái đập vào mắt đầu tiên là bức chân dung Khuất Nguyên rất sáng ở một góc tường. Dáng gầy gầy, cả gương mặt ông toát ra vẻ vừa gần gũi thanh cao vừa như gánh phải quá nhiều ưu tư của nhân tình thế thái. Tôi vội chộp vài bức hình làm kỷ niệm vì trong đời đâu biết rằng sẽ chẳng còn dịp quay lại chốn này.
Ảnh lưu niệm trước cổng miếu Bến Mịch La – nơi Khuất Tử quy tiên
Rời miếu Khuất Nguyên, tôi vào vườn bia đá. Một công viên hoa và bia đá rộng lớn hiện ra trong tầm mắt nhưng không có một bóng người, trừ bức tượng Khuất Nguyên sừng sững ở giữa sân. Từng mái ngói che nắng che mưa cho từng hàng bia đá chạy dài thẳng tắp, thi thoảng nối với những cái đình có đề tên các trứ tác của Khuất Nguyên: Cửu Ca, Li tao, Thiên vấn..
Bên di ảnh Khuất Nguyên trong cổ miếu Tượng Khuất Nguyên trong vườn bia
Cả không gian ngôi miếu vắng lặng, dường như muốn diễn tả một cái chung duy nhất: mặc niệm vị thi nhân vắn số. Ngoài kia, từng đàn trâu nước vẫn nhởn nhơ gặm nhấm, đám mục đồng vẫn lủi thủi đi về, dòng Mịch La vẫn đìu hiu theo năm tháng. Nghe nói rằng đúng vào ngày Đoan ngọ năm nay, người ta sẽ tổ chức đại lễ Đoan dương trên sông cùng với nghi thức rước đuốc Olympic Beijing 2008. Chí ít trong năm sẽ có một ngày quê hương Khuất Nguyên bớt phần cô quạnh đìu hiu. Song, tôi lại thích chính cái nét tĩnh mịch đến nao lòng này.
Tôi rời miếu Khuất Nguyên trong vắng lặng. Chiếc xe buýt cà tàng lại đưa tôi về phố thị Mịch La điềm tĩnh. Một chuyến xe khác sẽ lướt vội đưa tôi đến thăm mộ Khuất Nguyên cách đó chừng 10 cây số.
Những chiếc thuyền rồng chuẩn bị cho ngày hội Đoan dương Mộ Khuất Nguyên
Người Mịch La quyết xây dựng văn hóa đua thuyền rồng ngày Đoan ngọ gắn với tích Khuất Nguyên. Dù vậy, Mịch La vẫn nghèo. Những người Mịch La tôi gặp đều toát lên nét lam lũ, tảo tần trong cơn lốc mưu sinh. Khuất Nguyên đã ra đi ngần ấy thế kỷ, quê hương ông vẫn không mấy đổi thay, thậm chí còn cô quạnh hơn xưa nhiều. Người đời vẫn ngâm thơ Khuất Nguyên, vẫn hát vang bài Li Tao, Thiên vấn, song mấy ai biết được cố hương ông tịch mịch đến dường nào.
Trên đường điền dã, Mịch La (Hồ Nam) ngày 27 tháng 5 năm 2008