Có nhiều phương pháp trong giao dịch thương mại, nhưng thường được chia thành hai loại chủ yếu là ngồi tại chỗ mà buôn bán tại (tọa thương) và đi lại để buôn bán (hành thương). Đi lại buôn bán còn được gọi là chạy bán, hay bán du động. Còn ngồi tại chỗ buôn bán là thường cố định buôn bán tại một nơi, nhiều nhất là các hàng quán, tiệm bán hàng, thường tập trung nhiều ngành nghề buôn bán lại với nhau. Hai loại buôn bán này cũng đều có những cấm kỵ của nó.
Buôn bán du động cũng có nhiều nghề khác nhau, những cấm kỵ cũng có sự khác biệt. Thường mà nói thì những người kinh doanh buôn bán mỗi khi gánh hàng ra cửa thì họ kỵ “tháng kỵ ngày” (mùng 3, ngày 14, ngày 23), khi ra đường thì kỵ gặp phải quạ, càng kỵ gặp ni cô, hòa thượng. Đòn gánh để gánh hàng đi buôn thì kỵ không để người khác bước qua, càng kỵ để phụ nữ lấy chân đá vào nó. Có nơi, khi gặp những người cưỡi ngựa ra ngoài buôn bán thì kỵ nói đến những câu liên quan đến lang sói hổ báo, nếu không, khi đi ra ngoài sẽ gặp điều không tốt. Thương nhân khi đi ra ngoài đường thì kỵ không được nói đến những lời bất cát bất lợi, không được đạp vào gót chân của người khác, nếu không thì sẽ luôn thua sút với người, gặp xui xẻo và không kiếm được lời. Trong việc mua bán ở nông thôn và ở các chợ thuộc vùng Tứ Xuyên, khi thương lượng giá mua bán lợn, trâu thì người ta thường kỵ nói những con số chẵn, vì cho rằng, số chẵn có ý nghĩa là hết rồi, không còn gì nữa, như thế sẽ không tốt, con vật được mua về nuôi sẽ khó mà lớn được.
Những cấm kỵ trong loại buôn bán cố định là rất nhiều. Chủ tiệm rất kỵ vào sáng sớm mà mua bán không thành với người khách đầu tiên, vì e rằng suốt ngày sẽ phải gặp xui xẻo. Trong tiệm, kỵ chống eo lười nhác, hoặc ngáp, hoặc đạp lên vải bọc trên đất, hoặc ngồi ở ngạch cửa, hay gõ vào bàn tính tiền, đứng tựa cửa mà lưng hướng ra ngoài, đùa bàn tính và cất bàn tính…, tục cho rằng, những hành vi này là biểu hiện bất kính với thần tài bồ tát, sẽ gây bất lợi cho việc làm ăn kinh tế. Khi quét tiệm thì kỵ quét ra ngoài, mà cần phải quét hướng vào trong, ý là quét vàng bạc châu báu vào nhà. Gặp ống đồng trên mặt đất thì kỵ không được nhặt lấy, khi đếm tiền bạc thì phải hướng ra bên ngoài.
Mua lợn thì phải nói là mua “chợ lời”; khách hàng khi mua đồ dùng cho đám cưới mà nhỡ tay làm vỡ vật, thì sẽ phải nói rằng “khai hoa trước, kết quả sau”; khi mua con mực thì phải gọi là cá mực (trong tiếng Hoa, cá mực có hai cách gọi, thứ nhất là ô tặc 烏賊 (thằng giặc đen), thứ hai là mặc ngư 墨魚 (con cá phun mực), người ta kỵ cách nói thứ nhất, nhưng trong tiếng Việt thì cả hai cách nói này chỉ có thể dịch là cá mực, nên vì thế mà không thấy rõ được sự cấm kỵ - TDK); khi bán quan tài thì kỵ hỏi thăm là ai chết, và gọi quan tài là “chiếu trường thọ”; khi mua thuốc thì kỵ ngửi, cho rằng, thuốc mà bị ngửi qua thì mất tác dụng, khi đưa cho người mua thì cần phải nói là “cho gửi thuốc bổ”. Những người kinh doanh trong tiệm thuốc, tiệm quan tài, khi có khách đến thì kỵ nói những câu như “anh đến nữa nhé”, “rất vui mừng được đón tiếp anh nữa”. Nếu không, khách hàng sẽ cho rằng anh ta đang nguyền rủa người trong nhà mình là sẽ “bị bệnh nữa”, “có người chết nữa”.
Khi bán vải vóc thì kỵ không gõ vào cân; khi bán rượu thì kỵ không lắc lắc chai rượu, nếu không, người ra bảo rằng, khi uống thì đầu óc sẽ choáng váng. Đầu năm, khi nhập hàng vào cửa hiệu thuốc, thì phải nhập vào vị thuốc đại hải lớn và hạt sen lớn để lấy cái ý đại phát đại lợi. Ở các tiệm uống trà, tiệm cơm thuộc vùng Nam Kinh Giang Tô, thì ba người ngồi một bàn, nếu như trống một ghế thì không được ngồi, gọi là “ngồi kiểu đóng cửa”, chủ tiệm rất kỵ. Những người hầu bàn trong các nhà hàng, quán rượu thì tối kỵ người khách đứng đầu gọi món “cơm chiên” (炒飯), vì trong tiếng Quảng Đông, “chiên” (炒 chǎo) có nghĩa là sập tiệm. Khi làm bếp mà nghe thấy tiếng “chiên” thì cũng cho là không tốt. Những nhân viên làm việc trong cửa hiệu không được đọc sách, cho dù có rảnh rỗi thì cũng không có ngoại lệ. Ông chủ thì muốn một vốn vạn lời, đâu dễ gì để bị thua lỗ? Vì thế nên mới cấm kỵ vậy. (Ở đây, các ông chủ cửa hiệu cũng kỵ hiện tượng hài âm giữa “sách” (書 shu) và “thua” (輸 shu) - TDK). Trước đây, ở một số khu vực của người Hán, người ta có cấm kỵ khi bán lợn là bán lợn không bán dây. Người bán lợn thì tất sẽ phải dùng dây buộc để dẫn lợn đi, nhưng khi bán lợn thì phải thu lấy dây về, vì cho rằng nếu bán luôn dây thì sẽ bị người ta mang vận may của mình đi mất, sau này có nuôi lợn nữa cũng sẽ không tốt.
Trong các cửa hiệu thương nghiệp thì cửa hiệu thuốc là nơi có nhiều cấm kỵ nghiêm ngặt nhất. Khi học trò bước vào tiệm, đầu tiên phải nhặt lấy “vạn kim chi” (nhành vàng), “kim ngân hoa” (hoa vàng hoa bạc) và “kim đấu” (đấu vàng), với ý nghĩa là lấy vàng bạc vậy, hoặc nhặt “bách tử nhân”, vì “bách tử nhân” cũng tương tự như hạt gạo, nhằm để nuôi tác phong làm việc cẩn thận cho bọn học trò học nghề. Trong lời nói bình thường thì thường lấy tên thuốc để lấy cái may. Ví dụ như “liên kiều” để gọi “thái hợp”, “bối mẫu” để gọi “nguyên bảo bối”, “quất lạc” để gọi “phúc lộc”, “trần bì” để gọi “đầu hồng”, “quất hồng” để gọi “đại hồng bào”, cắt thuốc thì gọi là “đuôi hổ”, ghế thuốc thì gọi là “thanh long”; vào mùa xuân thì lấy “đông mộc” khai đao, mùa đông thì lấy “đơn bì” thu đao. Gói thuốc thì phải gói cho có hình như dấu ấn của vàng, vào mùa xuân thì còn phải dùng dây đỏ để buộc. Cấm để những người làm việc chung ngửi thuốc. Trao thuốc thì cấm kỵ chuyền qua tay người khác, vì cho rằng, nếu chuyền qua tay người khác thì sẽ chạm vào khí độc của người ấy. Khi đi hành nghề bán thuốc thì cũng phải có những quy tắc riêng, như khi dân gian đang ăn tết thì kỵ chẩn đoán bệnh, vì sợ chạm phải “khí độc”, trừ phi có hai khoản phí chẩn đoán bệnh để phá tai ách thì mới được. Bình thường, khi đi chẩn đoán bệnh, cũng không được gõ vào cửa của người bệnh, tục có câu “Thầy thuốc gõ cửa, phải mời vào mới xong”. Nhằm để giữ bí mật nghề nghiệp của mình, nên trong dân gian có cách nói đối với những thầy thuốc là “cho thuốc không cho đơn”. Thời xưa, những thầy thuốc rất kính trọng Hoa Đà, Tôn Tư Mạc, xem đó là tổ sư gia, không dám có chút gì bất kính.