Trước khi đi săn, thợ săn phải tiến hành nghi thức tế tự, cúng hiến thần săn. Những người thợ săn còn tin rằng, dã thú có linh tính, vì vậy mà thường thì không dám gọi thẳng tên của chúng, mà phải gọi với một cái tên khác. Ví dụ, người ta gọi hổ là con “đại trùng”, là “thần”; còn gấu thì gọi là “lão gia”, “lão gia tử”… Họ còn tin rằng, dã thú có khả năng dự báo trước những sự việc, nếu thợ săn không tuân thủ nghiêm chỉnh những cấm kỵ nào đó thì dã thú có thể biết được phương hướng hành động của thợ săn mà chạy đi mất. Ví dụ như, người Ngạc Luân Xuân, Ngạc Ôn Khắc thì đều cấm kỵ việc nói cho người khác biết chuyện mình đi săn trước khi đi săn, cấm kỵ nói “chúng ta đi đặt bẫy”. Và càng cấm kỵ không nói cho người khác biết nơi chốn và phương hướng đi săn, ngay đến người trong nhà cũng không ngoại lệ.
Trong thời gian săn bắn, thợ săn người Ngạc Luân Xuân, Ngạc Ôn Khắc cấm kỵ không nhắn thư cho người nhà, và người nhà cũng không được nhắn đến, nếu không thì không có lợi cho việc săn bắn. Khi săn thú, cấm kỵ không được dùng cây gậy để vắt ngang lên trên đường đã đi qua, khi cần dùng gậy để là dấu hiệu thì cũng phải để thuận chiều. Người ta nói rằng, nếu để gậy ngang đường thì sẽ khiến cho việc săn bắn gặp nhiều trở ngại, không thuận lợi. Việc nhóm củi lửa khi săn cũng cấm kỵ để củi cháy sụp xuống, vì cho rằng củi lửa bị sụp sẽ làm động đến Sơn thần gia (Bạch Tra Na) khiến việc săn bắn không có hiệu quả. Củi dùng để nhóm lửa nên ngắn, kỵ dài, vì nếu củi nhóm mà dài thì số ngày đi săn cũng sẽ bị kéo dài ra. Trong thời gian săn bắn, người ta kiêng kỵ tất cả mọi tiếng động. Không được ca hát, nhảy múa hay nói chuyện lớn. Khi đi săn, người Ngạc Luân Xuân cấm không được huýt gió tùy tiện, vì người ta cho rằng, nếu làm như thế thì sẽ gây gió lớn; khi đi săn, người Ngạc Ôn Khắc cấm kỵ không được kéo động cái nồi lúc nấu cơm, khi bới cơm thì cũng không được cạo nồi gây ra tiếng vang. Khi gặp dã thú thì cũng không được chỉ trỏ, nói năng bừa bãi.
Khi đi săn, người Ngạc Luân Xuân và người Ngạc Ôn Khắc còn kỵ giữa những người đi săn với nhau mà tạo nên sự mất đoàn kết, kỵ cãi nhau và đánh nhau khi ra đi săn, nếu không thì nhất định sẽ không gặp được con thú nào. Nếu có hai đoàn người đi săn gặp nhau thì phải hợp lại làm một, cùng nhau vây thú, và chia thú đồng đều cho nhau. Nhưng thời gian tối đa mà hai đoàn người đi săn này sáp nhập với nhau là một hoặc hai ngày, sau đó sẽ phân rẽ ra. Khi săn thú, nếu gặp dã thú thì không được tranh bắn thú trước, nếu không, không ai có thể tìm ra được con thú bị bắn ấy. Sau khi săn được hươu, ngạn thì cần phải xóa sạch vết máu, vết dơ lưu lại trên đất. Tại hiện trường đợi thú săn, thì không được vứt đầu thuốc, vỏ đạn, phân, một phần là e rằng sẽ gây ảnh hưởng cho người đi săn đến sau.
Khi săn thú, người Ngạc Luân Xuân còn cấm kỵ không được bắn con dã thú đang giao phối, vì cho rằng, khi bắn loại thú này thì sau này sẽ không thể nào săn được những con thú khác nữa. Nhưng nếu đợi đến khi con dã thú giao phối xong thì lại có thể bắn nó.
Đối với một số tộc người, khi săn bắn thì người ta còn sợ gặp phải sự quấy nhiễu của người ngoài hoặc của thần linh ngoài thần săn bắn. Ví dụ như, khi đi săn thì người Lạc Ba kỵ gặp phải người ngoài, nếu nhỡ gặp phải thì phải nhẹ nhàng tránh đi. Vũ khí săn bắn cũng kỵ để người ngoài nhìn thấy, nếu không, họ cho rằng linh hồn của người lạ sẽ cướp con thú đã săn được đi, khiến họ có săn mà không có thú. Người Ngõa thì kỵ không cho người khác mượn súng và cung mà bản thân mình chưa dùng qua, nếu không, bản thân người chủ sẽ không bắt được thú. Người Ngạc Luân Xuân cũng cấm vẩy rượu lên lửa trong lồng vào lúc săn thú.
Đối với người Ngạc Luân Xuân, trong khi săn bắn mà săn được một con hươu, một con ngạn hoặc một con lợn rừng, thì đầu tiên cần phải tế Sơn thần tại nơi ấy. Nếu không dùng con vật ấy để tế thì trong khi săn, thợ săn sẽ bị bệnh hoặc săn không được thú. Đối với thợ săn của vùng núi Trường Bạch, mỗi khi bắn trúng một con hươu đực, cần nhanh chóng chạy đến và ôm đầu hươu, nhằm phòng tránh hiện tượng do bị thương mà hươu làm gãy nát nhung hươu. Khi săn hươu đực thì kỵ những con hươu có nhung chưa lớn. Bình thường khi săn “thái vi”, tức chỉ tìm một con thú để săn, như báo chẳng hạn, thì cấm kỵ nhất là giết hươu đực, hươu cái. Thời xưa, người Tích Bá cấm kỵ săn giết cáo. Người Ngạc Luân Xuân, Ngạc Ôn Khắc khi săn được con dã thú lớn, như gấu, lợn rừng… thì khi mổ bụng lấy nội tạng ra, trái tim và lưỡi cần phải để ở cùng một chỗ. Chỉ khi nấu ăn chín thì mới được chặt thịt ra, nếu không, sau này sẽ không săn được loài dã thú này nữa.
Người Ngõa khi đi săn, họ chấp hành câu cách ngôn “người gặp cũng có phần” một cách rất nghiêm túc, kỵ chia thiếu phần. Nếu không, đó chính là một sự miệt thị rất lớn đối với người bạn săn, sẽ dẫn đến tranh chấp. Tục này còn cho rằng, khi đi săn trên núi cao, thì thịt của mỗi bữa ăn cần phải ăn cho hết, không được mang trở về nhà.
Người Ngạc Luân Xuân và người Ngạc Ôn Khắc có nghi thức sùng bái và một vài cấm kỵ rất đặc biệt đối với gấu. Sau khi thợ săn săn được gấu thì không được nói “săn trúng rồi”, mà phải nói rằng “thật là đáng tội nghiệp cho tôi”. Gấu bị bắn chết không được nói là “chết rồi”, mà phải nói thành “bố thổ cáp”, hoặc “a phạ kháp”, tức có nghĩa là “thành rồi”, hoặc “ngủ rồi”. Ở bãi săn, sau khi đã săn được gấu thì đầu tiên, người già sẽ đến để xem đó là gấu đực hay gấu cái, cấm trai tráng đếm xem. Bởi vì sinh thực khí của gấu hoàn toàn giống với của người, cho rằng, nếu để thanh niên trái tráng đếm xem thì sẽ mắc bệnh đái gắt. Khi lột da thì phải dùng tấm thảm hoặc những thứ khác để đậy lên phần thân dưới của gấu. Nếu là gấu đực thì đầu tiên là cắt tinh hoàn treo lên trên cây, sau đó mới lột da. Người ta cho rằng, chỉ có như vậy thì gấu đực mới thành thực khi gặp người. Đồng thời, phải đẩy máu động mạch về tim, không được cắt đứt động mạch. Sau khi moi lấy ruột ra và quấn ba vòng quanh đầu gấu thì mới được cắt cổ gấu. Không được ăn thịt đầu gấu, sau khi cắt ra thì dùng cỏ quấn lại, để lên trên giá cây tiến hành nghi thức phong táng. Những người thợ săn còn phải quỳ lạy đầu gấu, kính hương, dập đầu trước gấu và cầu xin thú săn trước đầu gấu, đồng thời, phải dùng khói hương hơ đầu gấu. Sau đó, cầm tấm da gấu đi qua cửa của từng nhà để cho gấu từ biệt mọi người, tấm da gấu ấy sẽ được tặng cho người già. Khi trở về nơi khiêng gấu đi, thì còn phải giả bộ khóc lóc. Phải dùng ngựa thiến để thồ gấu đi, không được dùng ngựa cái hoặc ngựa đực để thồ gấu. Thịt gấu phải được người của cả thôn cùng ăn. Con dao cắt thịt gấu không được gọi là dao, mà phải gọi là “khắc nhĩ căn cơ”, ý nghĩa là con dao cùn cắt không đứt gì cả. Cây súng bắn chết gấu thì cũng không được gọi là súng, mà phải gọi là “hô ông cơ”, ý là công cụ bắn không chết một loài động vật nào, hoặc gọi là “ống thổi (khạc) lửa”. Khi ăn thịt gấu, trong miệng phải phát ra tiếng “chách chách, cụp cụp”, tỏ ý rằng không phải họ đang ăn thịt gấu, mà là con quạ đang ăn vậy. Hai chân trước của gấu thì đàn ông không được ăn. Nếu đã ăn rồi, thì sau này gấu sẽ cướp mất súng săn. Đối với đầu gấu, tim gấu và nội tạng của gấu thì cho dù bất kỳ là ai thì cũng không được ăn, mà phải phong táng cùng với xương còn lại sau khi ăn. Khi phong táng, mọi người cần phải ra vẻ đau thương khóc lóc, và còn phải dập đầu, kính hương, cầu chúc.