Thời gian ăn tết là khoảng thời gian mà hoạt động cúng tế được tập trung nhiều nhất, bởi vì phần lớn thời gian dành để ăn tết đều có quy ước tập tục cấm chỉ mọi hoạt động lao động sản xuất. Nghe nói rằng, nếu trong thời gian này mà cày bừa thì sẽ xung phạm đến thần linh, khiến trăm việc trong năm ấy đều không suôn sẻ; hoặc là bị thiên tai, sâu bệnh, mất mùa. Rất nhiều tộc người còn có tiết lệnh cho thời gian nông nghiệp, vào ngày ngày tiết khí thì cấm không được sản xuất. Ví dụ như người Dư, người Bạch đều kỵ xuống ruộng cày bừa vào ngày tiết Xuân phân, Thanh minh, Đại thử, Tiểu thử, Lập thu. Người ta bảo rằng, như thế là vì sợ đào phải địa mạch long thần, mùa màng sẽ không tốt. Người Thái thì kỵ không được lao động vào ngày Đông chí, nếu không, họ cho rằng trâu ngựa sẽ bị chết. Nhiều tộc người khác như người Bạch, người Dư, người Di đều kỵ xuống ruộng lao động trong thời gian những ngày mùng tám tháng hai, ngày mùng ba tháng ba, ngày đuốc lửa (tức ngày 24, 25 tháng sáu âm lịch), ngày phân long (tức trước và sau ngày hạ chí). Người ta bảo rằng, nếu xuống ruộng vào thời gian này thì sẽ chạm đến Long thần, cắt đứt nguồn nước, mùa màng sẽ không được tốt, hoặc là bị sâu bệnh, vì vậy mà cấm không được xuống ruộng; người Dư lại kỵ xuống ruộng cõng nước vào ngày bảy tháng bảy, cho rằng, nếu xuống ruộng cõng nước vào ngày này thì sẽ gặp phải ma nước, khiến cho ruộng lúa bị hư; tộc người Mục Lao thì cần phải làm nghi thức tế thần tập thể vào ngày mười lăm tháng tám, lúc ấy, mọi người sẽ ngưng lại mọi công việc sản xuất, cùng tụ tập lại ăn cơm với nhau.
Ở một vài tộc người khác hoặc ở một vài khu vực khác, vào một vài ngày đặc biệt nào đó thì cũng kỵ không được lao động sản xuất. Thời xưa, người Thổ Gia đều không xuống ruộng canh tác vào ngày mùng năm, ngày mười lăm và ngày hai mươi lăm. Tục cho rằng, mỗi khi gặp con số năm thì gọi là “phá ngũ”, mà phá thì tất sẽ không tốt, vậy nên cấm không canh tác; người tộc Bạch, tộc Di đều kỵ lao động vào ngày mùng một, ngày mười lăm, e rằng sẽ khiến bị mất mùa, thiên tai; người Hán ở Hồ Bắc và người Di, người Mao Nam đều có tập tục kỵ cày bừa, trồng trọt vào ngày Tuất, nếu không, những cây lúa mạch trời trồng này sẽ làm chết người; người Hani cũng có tập tục kỵ sản xuất vào ngày Mùi, ngày Hợi, ngày Tý, vì cho rằng như thế là để tránh tai họa giáng xuống. Ngày Hợi trong thời gian tết Sa Nhân của người Choang cũng là ngày kỵ, vào ngày này, bất kể là người ở trong nhà hay là người đi xa, chỉ có thể thảnh thơi ăn uống, tất cả đều cấm kỵ không được làm việc gì, nếu không sẽ bị mọi người chỉ trích. Các tộc người Hán, người Di, người Thủy, người Mục Lao, người Bố Y, người Choang… đều có tập tục cấm cày ruộng khi nghe thấy tiếng sấm.
Vào những ngày hung họa bất tường thì cũng bị cấm kỵ không được canh tác. Ví dụ như tất cả các hoạt động nông nghiệp quan trọng như cày, trồng, thu hoạch mùa màng của người Tạng ở Thanh Hải đều phải được cầu thần bói quẻ, chọn ngày tốt lành, sau đó mới được phép làm việc. Nếu như ngày đó không được tốt, thì không dám tiến hành; người Ngõa, người Bạch khi trong nhà có người chết, mà nhất là chết dữ, thì cả trại đều bị cấm không được lao động sản xuất một ngày; nếu không, sẽ gặp phải nạn sâu hại. Khi trong trại có người chết, dã thú vào trại, chó trèo lên nóc nhà, bị hỏa hoạn…, thì người Hani đều cho đó là ngày kỵ, phải ngừng mọi công việc lại. Nếu nằm mộng thấy điều không tốt thì cũng kỵ sản xuất. Trong các hoạt động chặt đầu người, lấy đầu người cúng vào trong hốc cây, chặt đuôi bò… thì cũng có quy định kiêng kỵ không được lao động sản xuất. Nếu không, người ta cho rằng sẽ gặp phải các tai nạn như bệnh, nạn gió, nạn mưa; khi người Di sinh con, thì cả nhà người ấy cũng không được xuống ruộng đồng canh tác ngay vào ngày hôm đó.
Trong nông nghiệp, ngoài việc sử dụng cấm kỵ không sản xuất để phòng tránh tai nạn xảy ra, thì trong lúc sản xuất cũng có rất nhiều sự việc cần phải kiêng kỵ, tránh né. Ví dụ như ở một vài tộc người, thì khi hoạt động sản xuất nông nghiệp, đầu tiên cần phải tiến hành một vài nghi thức tế tự, sau đó mới có thể làm việc. Đối với người Ngõa ở Vân Nam, khi chưa tế trại thần và gia thần thì không được phép vãi hạt giống, nếu không, ngũ cốc khi lớn lên sẽ không tốt. Trong nghi thức vãi hạt giống, người ta cần phải đem hạt giống của các sản vật nông nghiệp như lúa, dưa, kê, bông để vãi xuống vào trong phần đất với tính tượng trưng, không được vãi ra ngoài phần đất, vì như thế tức là tỏ thái độ bất kính đối với thần đất, sẽ chọc giận thần và sẽ bị trừng phạt.
Đối với người Bạch và một sô tộc người khác, khi sạ gieo mạ và cấy mạ thì đều cấm không được nói những lời không tốt, nếu không, người ta cho rằng sẽ ảnh hưởng đến lượng thu hoạch của năm đó. Thời xưa, người Tạng ở Thanh Hải cấm đào suối trên núi, cấm mở đường nước, vì cho rằng như thế thì sẽ đắc tội với Long thần, tất sẽ gặp tai nạn như lụt lội hay hạn hán, hoặc sẽ khiến cho người mắc bệnh hủi mà chết. Tộc người Thủy cũng cấm kỵ không được đào giếng, sửa cống, vì cho rằng có thể sẽ đào đứt long mạch, khiến nông sản bị giảm sản lượng. Người Thủy và người Thái lại có cấm kỵ “nam không cấy mạ, nữ không cày bừa”. Nhưng người Dao lại có tập tục cấm người nữ cấy mạ, vì họ cho rằng nếu để đàn bà cấy mạ thì không trúng mùa được. Người Ngạc Ôn Khắc cho rằng, nếu để người già gieo giống thì mùa màng sẽ không được tốt, mà người gieo giống tất phải là những người thanh niên mạnh khỏe. Tục còn cho rằng, khi gieo giống thì không được đến gần phần mộ, nếu không thì cũng sẽ ảnh hưởng đến mùa màng. Người Mao Nam thì cấm kỵ huýt sáo trong khi làm ruộng, vì cho rằng, tiếng huýt sáo là tiếng quái dị so với tiếng nói thường, tiếng huýt sáo sẽ khiến ác ma đến làm sùng, khiến nông sản sẽ bị thất thu. Ngoài ra, khi làm ruộng thì người Mao Nam cũng cấm kỵ không được nói đến chim chóc, dã thú. Người ta cho rằng, nếu nhắc đến chim và thú vào lúc này thì sẽ khiến chim thú đến dẫm đạp lên làm nguy hại cho mùa màng, khiến giảm lượng thu hoạch.
Khi trồng cây bông, cây kê thì người Thủy cũng cấm kỵ không nói đến những lời liên quan đến cây bông, cây kê, e sẽ xung phạm đến chúng. Khi trời hạn hán thì không được gánh nước tưới mầm cây, vì cho rằng làm như thế là trái lại với ý trời, mùa màng sẽ không tốt. Đối với người Túc Lật, người Di, khi xuống ruộng thì cấm kỵ không được vác những nông cụ lên vai, như cái cuốc chẳng hạn, vì người ta cho rằng, chỉ có chôn cất cho người chết thì mới vác như thế. Ở vùng Trú Mã Điếm Hà Nam, vào ngày gieo giống thì không cho phép trẻ em ăn cơm. Khi thu hoạch lúa mạch thì cần phải tế sam (cúng tế khi gặt), khi vận chuyển vào bãi thì phải tế cổn (cúng tế khi lăn thóc về). Trong bãi đập lúa mạch thì cấm không để phụ nữ và trẻ ở truồng bước vào. Khi đến mùa thu hoạch, thì càng cấm kỵ không được nói những lời bất cát bất lợi. Khi lương thực đã đem về đến bãi, thì kỵ người khác hỏi thăm là mỗi mẫu trồng được bao nhiêu cân, kỵ để người khác nhẩm tính tổng sản lượng là được bao nhiêu cân, và cũng không được nói những câu kiểu như “sắp thu hoạch lương thực xong rồi nhỉ?”.