Trước đây, các thương nhân khi đi xa thì thường chọn ngày mang số tám để xuất hành, đó là do dựa vào lời tốt lành “muốn phát đạt thì không rời số tám” mà có sự chọn lựa như vậy. Những con số bị kiêng kỵ là những con số mà người ta cho rằng nó mang ý nghĩa nguy hiểm, nếu không cô độc, ly tán thì cũng là lâm chung, chết chóc, chúng đều là những điều rất xấu. Từ một cho đến một trăm, ta cũng đã có rất nhiều những con số mà cần phải tránh chúng.
Số “một” cũng đã bắt đầu cho sự kiêng kỵ. “Một” là số lẻ, nếu như tặng lễ vật cho ngày hôn lễ hay chúc thọ của người khác thì kỵ không tặng vật mang con số lẻ, lễ vật gặp mặt của người kết hôn tặng cho kẻ bề dưới thì cũng kỵ con số lẻ, ở đây cũng mang một hy vọng “sự tốt thành đôi”.
“Hai” tuy là số chẵn nhưng cũng bị kiêng kỵ trong một số trường hợp. Như khi tặng lễ cho người bị bệnh hoặc cho tang gia thì lại kiêng kỵ số cặp đôi. Đối với tộc người Mãn, người Triều Tiên, người Hán thì họ kỵ không chuyển cữu vào ngày chẵn, bởi vì ai lại muốn chuyện không mong muốn mà lại đi thành cặp thành đôi bao giờ.
Kỵ số “ba” (三sān), vì nó hài âm với chữ “ly tán” (散sàn). Đối với người vùng Dương Châu, khi mừng thọ thì kiêng con số này, gọi là nam không làm “ba”, nữ không làm “bốn”, tức là chỉ năm tuổi “ba mươi” và “bốn mươi”. Trên một tầng ý nghĩa thì “ba mươi” và “bốn mươi” tuổi là con số không lớn, không thể mừng thọ được, ở một tầng ý nghĩa khác thì “ba” (三sān) và “ ly tán” (散sàn), “bốn” (四sì) và “chết chóc” (死sǐ) hài âm với nhau, sẽ không tốt. Nhưng ngược lại thì nam có thể mừng thọ lúc bốn mươi, và nữ có thể mừng thọ lúc ba mươi tuổi, ở đây là chỉ nhằm phá được ly tán và chết chóc mà thôi. Thời xưa, người phụ nữ không có địa vị, rất sợ bị ly tán, nếu làm thọ “ba” rồi thì sẽ không sợ bị ly tán nữa, con đàn ông thì khi làm thọ “bốn” rồi thì cũng phá được phép, nếu phải chết thì cũng không chết được.
Kỵ con số “bốn” (四 sì), ví nó hài âm với “chết chóc” (死sǐ). Vì vậy mà có một vài khu vực miền Đông Bắc kiêng kỵ con số bốn, nên phàm là con số bốn thì đều bị kiêng kỵ.
Kỵ con số “năm”, người Trung Quốc xưa kỵ sinh con vào ngày năm tháng năm âm lịch. Ngày mùng năm kỵ không phơi chiếu nệm, kỵ lợp nhà, vì cho rằng làm như thế đều không tốt.
Kỵ con số “bảy”, có câu cấm kỵ rằng “mùng bảy không đi, mùng tám không về”, ở đây có nghĩa là phụ nữ không được lựa ngày mùng bảy và ngày mùng tám để đi ra ngoài và trở về nhà. Dương Châu có câu tục ngữ: “gặp bảy không thuận”, đó là do trong xã hội phong kiến xưa có luật “thất xuất” đối với phụ nữ, nếu phạm vào trong bảy điều luật ấy thì đàn ông có quyền thôi vợ. Kỵ số tám, vì số tám 八 là bộ thủ của chữ phân 分, sợ rằng sẽ phải biệt ly.
Kỵ con số “chín”, vì vùng Gia Hồ ở Hàng Châu đều cân thể trọng vào ngày lập hạ, sau khi cân xong phải báo số, nhưng không báo con số chín, nếu gặp số chín thì phải báo làm số “mười”, bảo là lấy điều cát lợi. Ở một số khu tập thể của người Dư thì cấm viết con số “chín”, vì trong thần thoại truyền thuyết thì tổ tiên của tộc người Dư là con thần khuyển, mà khuyển 犬và cửu 九lại có dạng tự tương cận nhau, vì vậy mà kỵ con số chín.
Những con số của tháng bị cấm kỵ là tháng giêng, tháng hai, tháng năm, tháng bảy, tháng chín âm lịch. Ở Triết Giang trước đây, người ta không làm nhà vào tháng giêng, tháng chín; không xây bếp vào tháng hai, tháng tám. Trước đây, ở khu vực người Hán và một vài khu vực tộc người khác, người ta kiêng không kết hôn vào năm, bảy, chín, vì cho rằng đó là những con số không tốt.
Kỵ con số “mười tám”, người Dư kỵ để con trai con gái kết hôn vào lúc mười tám tuổi, người ta cho rằng, nếu kết hôn vào lúc ấy thì sẽ gặp phải “mười tám nạn”.
Kỵ con số “hai mươi” (nhị thập), khi người Triết Giang đọc từ “nhị thập” đến “nhị thập cửu” thì người ta đọc là “trấp nhất”, “trấp nhị” cho đến “trấp cửu”. Nghe bảo rằng, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, Ngô Vương có một người con gái tên là Nhĩ Thích 尔释, bị mắc xương cá mà chết. Nhĩ Thích (ěr shi) có âm đọc tương cận với “hai mươi” (èr shí), Ngô Vương mỗi lần nghe thấy chữ “hai mươi” bèn nhớ đến con gái Nhĩ Thích của mình mà khóc. Để kỵ húy Nhĩ Thích, nên người đời sau đổi “nhị thập” (二十hai mươi) thành “trấp” (廿 hai mươi).
Kỵ con số “ba mươi sáu”, ở suốt một dãy vùng Hồ Bắc đến Trường Dương, người ta nói số ba mươi sáu (tam thập lục) là giờ khắc nguy hiểm, vì vậy mà kỵ đọc đến số này. Khi ghi vào sổ số người mang lễ vật, khi viết đến con số ba mươi lăm người thì để rống con số ba mươi sáu, sau đó viết tiếp con số ba mươi bảy. Có người nói rằng, sở dĩ kỵ dùng con số ba mươi sáu là do Chu Du của Đông Ngô xưa chết vào lúc ba mươi sáu tuổi.
Kỵ con số “bốn mươi lăm”, theo “Biện Lương tỏa ký” thì: “Dân gian đất Biện lưu truyền rằng: Lão Bao (Chửng) phụng mệnh Trần Châu đi phát lương, giữa đường bị cướp, chỉ có Kiều Trang Vương Bát thoát ra khỏi vòng nguy hiểm nên mới tránh đuợc nạn. Lúc ấy, ông vừa đúng bốn mươi lăm tuổi, nên dân gian cho rằng vào cái tuổi bốn mươi lăm thì tất sẽ có ách nạn, do vậy mà phải tránh nói đến số bốn mươi lăm tuổi, đa số là đổi sang bốn mươi bốn hoặc bốn mươi sáu để tránh nạn vậy”.
Kỵ con số “bảy mươi ba”, “bảy mươi bốn”, tục ngữ có câu: “Vào năm tám bốn bảy ba, Diêm Vương không thỉnh thì ta cũng về”. Nghe nói rằng, Khổng tử (Khâu) chết vào năm bảy mươi ba tuổi, Mạnh tử chết vào năm tám mươi bốn tuổi, thế nên ngươi ta mới lấy con số này làm con số đại kỵ, nếu như có thể qua được tuổi bảy mươi ba, thì cũng giống như vừa nhảy qua được một cái cánh cửa nạn tai, sau này có thể sống đến tám mươi bốn tuổi. Và cũng tương tự, khi đến cái cửa ải tám mươi bốn tuổi mà cũng vượt qua được thì có thể hy vọng là sống đến trăm tuổi.
Kỵ con số “tám mươi mốt”, đối với khu vực Hồ Châu Triết Giang, phàm là những người hưởng dương thọ vừa đúng tám mươi mốt tuổi mà lìa đời thì người ta cho rằng, khí số đã tận, vì chín lần chín tám mươi mốt, người đời sau sẽ lâm vào cảnh bần cùng. Vì vậy nên người ta phải tháo dỡ bàn tính ra, đợi đến khi người chết ngừng thở thì ném bàn tính ấy ra cửa sổ, cho rằng như thế sẽ phá được tai họa.