Ở vùng Giang Tô vào mùng một tháng giêng, người ta có tập tục nhìn hướng gió vào buổi sáng khi vừa thức dậy để bói xem chuyện nông tang như thế nào, người ta cho rằng, nếu hướng gió vào lúc ấy là theo hướng Đông Bắc thì đó là điềm tốt, còn hướng Tây Bắc thì đó là điềm xấu. Người ta kỵ gió hướng Nam, tục cho rằng gió nam là chủ về hạn hán, và cũng kỵ gió hướng Đông Nam vào mùa hè, vì nó cũng chủ về hạn hán. Ở khu vực Sùng Minh, người ta kỵ có gió Tây Bắc hoặc gió Đông Bắc nổi lên vào ngày có sương trắng, người ta cho rằng, như thế sẽ không có lợi cho việc cây bông ra hoa. Thời xưa, trong sản xuất nông nghiệp thì còn có cách nói “Gió ở tám hướng, chỉ có gió tốn (tức gió Đông Nam) là tốt, cái còn lại đều xấu cả”.
Do hình thù của cơn gió lốc là rất kỳ quái, người ta cho rằng, nó thuộc vào dạng hiện tượng quái dị, vì vậy mà cũng có một vài kiêng kỵ đối với nó. Tục cho rằng, gió lốc là loại gió do quỷ đi trên đường tạo ra, người ta ai mà gặp phải thì sẽ không hay. Nếu như gặp phải thì cần dùng các cách để đánh đuổi nó như nguyền rủa, thóa mạ, dùng vật đánh nó… để giải trừ tai tạn. Những lời nguyền rủa, khẩu quyết thường là “gió lốc gió lốc mày là quỷ ma, tao có dao sắc chặt đứt chân mày”…
Dân gian tin rằng, ánh chớp là do thần lôi công tạo ra. Trong thời tiết mà đáng ra không có chớp, nhưng lại có sấm vang chớp giật, thì người ta cho rằng, đó là điềm triệu báo trước rằng sẽ có tai họa sắp giáng xuống. Người Hán, người Dao đều kỵ tiếng sấm vào tháng giêng, tháng hai. Đến tháng mười, cũng là lúc lập đông thì người ta cũng kỵ nghe thấy tiếng sấm, vì vậy mà trong dân gian cũng có câu tục ngữ kỵ tiếng sấm tháng mười, ví dụ như người Hà Bắc có câu “sấm vào tháng mười thì lấy bồ cào mà đẩy người chết”, có nghĩa nếu có sấm vang vào tháng mười thì năm tới ắt có bệnh dịch khủng khiếp hoành hành.
Ở vùng Giang Tô cũng có cách nói kỵ tiếng sấm vào mùa thu, gọi là “mùa thu sấm ù ù, lượm thóc lép”, tức là nói rằng, tiếng sấm vào tiết lập thu là chủ về cái vỏ ngoài mà không có bên trong, vì thế nên người ta mới kỵ nó. Người dân vùng Quảng Tây cũng có cách nói tương tự “sấm mùa thu, lúa muộn thu được nửa phần”. Ở vùng Hà Nam, người ta kỵ tiếng sấm vào tháng chín. Tục ngữ có câu: “Tháng chín lôi công đi đánh, sang xuân một năm hạn tám tháng”, vì cho rằng nếu sấm vang vào tháng chín thì năm sau đó sẽ gặp đại hạn.
Do sợ sấm, nên người Bố Y, người Thủy còn có tập tục cấm kỵ không sản xuất khi trời có sấm. Bắt đầu từ tiếng sấm đầu tiên vào mỗi năm, người ta quy định là không được trồng trọt nữa, mãi cho đến khi gieo mạ, hoặc đến khi lúa nước đã lớn đến một độ cao nhất định thì mới thôi. Trong thời gian có tiếng sấm, kỵ được không cày ruộng, vỡ đất, gieo trồng.
Nước mưa có quan hệ rất quan trọng đối với con người và mùa màng, người ta cho rằng, lượng nước mưa nhiều hay ít đều là do thiên thần quản hạt. Vì vậy mà người ta có tập tục cầu đảo thần mưa (tức Long Vương gia), cầu mưa. Thời xưa, phần nhiều các khu vực đều có cái ăn là nhờ vào trời cả, nên vào những ngày quan trọng trong giai đoạn trưởng thành của cây nông nghiệp, người ta kỵ mưa hoặc kỵ không có mưa. Ví dụ, ở dãy đất huyện Lộc Ấp, Hà Nam, tục có câu “Tháng ba sợ mùng bảy, tháng tư sợ mùng một. Mùng một, mười lăm đều không sợ, chỉ sợ mưa ngày mười hai tháng mười”. Giang Tô cũng có câu “Tiểu mạch không sợ người cùng ma, chỉ sợ mưa đêm mùng tám tháng tư”. Từ đây, ta có thể biết được rằng, những khu vực này cùng với lúa tiểu mạch đều kỵ mưa nhiều vào tháng tư. Ở vùng đất Giang Tô, ngày hai mươi tháng bảy được xem là ngày cây bông ra hoa, ngạn ngữ địa phương nói rằng: “Mưa rơi hai mươi tháng bảy, cây bông không lên tiệm”. Đối với nông nghiệp, phần nhiều những ngày quan trọng đều kỵ mưa (hoặc kỵ không có mưa). Như người vùng Hà Nam thì kỵ không có mưa vào ngày lập hạ, tục nói rằng: “lập hạ trời không mưa, lưỡi cày treo không động”, có nghĩa là nếu lập xuân mà trời không mưa thì đó là điềm triệu của một năm xấu. Nhưng vào đêm lập thu thì kỵ mưa. Người Giang Tô thì kỵ mưa nơi mặt trời đang nắng, ngạn ngữ có câu: “Nơi nắng mà trời lại mưa, tuy đậu được quả nhưng không thu được gì”. Lại kỵ trời mưa vào ngày có sương trắng, tục có câu: “Trước sương trắng là mưa, sau sương trắng là quỷ”. Những tập tục kiêng kỵ về mưa ở các khu vực khác nhau thì cũng không giống nhau, nhưng nhìn chung, đại đa số là có quan hệ với việc canh nông.
Trong mắt của những người mê tín, thì cầu vồng mọc sau cơn mưa cũng được xem là sự hiển hiện của ý trời, là điềm triệu của thần linh. Người Ngạc Luân Xuân, người Hán đều cấm kỵ không được dùng tay chi trỏ lên cầu vồng, sợ là sẽ mạo phạm đến thiên thần. Khi cầu vồng mọc ở phương Nam và phương Bắc thì dân gian còn cho rằng, đó là điềm tượng trưng cho tai nạn. Tục ngữ có câu: “Cầu vồng hướng Đông thì sấm, cầu vồng hướng Tây thì mưa, cầu vồng hướng Nam thì nước lụt, cầu vồng hướng Bắc thì bán con”.
Nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên mà tính chất quan trọng của nó đối với con người là rất rõ và dễ thấy. Hầu hết các dân tộc đều cho rằng, nước có khả năng ẩn tàng quỷ quái trong nó. Người Bố Lãng còn cho rằng, nước được con ma nước quản lý, mà người Bố Lãng thì rất kỵ con ma nước, vì vậy mà cấm kỵ không dẫn nước vào trong trại. Họ cho rằng chỉ có cách làm như thế thì mới có thể cách ly được với con ma nước, đảm bảo được sự bình yên cho trang trại. Đối với những hồ nước tự nhiên thì tộc người Bạch cũng rất mê tín, họ cho rằng có Long thần cư ngụ ở trong ấy. Ở những hồ nước ấy thì cấm không để súc vật đến uống; cấm không để trẻ em đến đó tắm; cấm không cho phụ nữ đến đó giặt đồ. Khi có người bị bệnh, thì người ta cho rằng đó là do xúc phạm đến Long thần ở trong nước, cần phải giết cừu, giết gà, đem đến bên hồ để cúng tế Long thần. Người Hồi rất chú trọng đến sự sạch sẽ của nước, cấm kỵ để người ngoài dùng đồ chứa nước mà không được sạch đến lấy nước trong giếng nước, khạp nước của người Hồi.
Khi hạn hán, người tộc Thủy cấm kỵ không được gánh nước ngâm mạ, vì họ cho rằng, nếu như thế thì sẽ làm trái với ý trời. Thời xưa, bất luận là hạn hán như thế nào đi nữa thì cũng cấm kỵ không được đào giếng, sửa cống, dẫn nước vào để tưới ruộng, vì cho rằng, làm như thế sẽ làm đứt long mạch, phá thế phong thủy, sẽ mang tai họa đến.
Từ xưa, dân gian đã xem lửa là thần thánh. Trong tộc người Hán và rất nhiều các tộc người khác, cho đến nay, họ vẫn còn nghi thức sùng bái Hỏa thần. Người Ngạc Ôn Khắc thì cho rằng, chủ nhân của lửa chính là thần, và chủ của lửa trong mỗi hộ gia đình chính là tổ tiên của họ. Mỗi nhà mỗi hộ đều phải giữ mồi lửa cẩn thận, ngay cả khi di dời nó thì cũng không được phép làm nó tắt đi. Một khi mồi lửa bị tắt thì nó cũng mang ý nghĩa là nhà ấy cũng bị đứt gốc. Vào mùa thu của mỗi năm, cần phải tế lửa, mà người phụ nữ là người chủ tế. Khi tế lửa, thì cấm kỵ không dùng đồ sắt, gậy gỗ để nhóm lửa, không được bới tro, vứt tro, cấm kỵ quét dọn trong phòng. Cô dâu khi đến nhà chồng thì đầu tiên là phải bái thần lửa của nhà chồng. Chỉ khi tự mình giới thiệu với lửa, thì sau đó mới có thể trở thành một thành viên trong gia đình ấy. Bình thường, người ta cũng cấm không được dùng những đồ vật sắc bén để đẩy lửa hay gạt lửa. Tục cho rằng, như thế sẽ làm thương tổn đến thần lửa, mạo phạm đến chủ của lửa. Khi ăn cơm, uống rượu thì đầu tiên là nhỏ một vài giọt rượu vào trong lửa và nói một vài câu chúc phúc. Nếu không cũng bị xem là đắc tội với thần lửa; nếu tạt nước vào lửa thì càng bị cấm kỵ. Người Ngạc Luân Xuân, người Hách Triết cũng có những cấm kỵ như vậy. Khi buộc phải dùng nước tạt vào lửa, thì người Hách Triết phải nói: “Xin thần lửa nhích chân qua một tý”, cho rằng việc nhắc nhở ấy sẽ khiến cho thần lửa không bị thương.
Không được làm thương hay là ô uế đến thần lửa. Những thứ dơ bẩn thì bị cấm không được vất vào lửa. Người Ngạc Luân Xuân cấm kỵ không được nhổ đàm, tiểu tiện, đổ vật bẩn vào trong lửa. Khi làm cơm, nếu không cẩn thận và để nước cơm tràn xuống lửa, thì ngay lập tức phải cầu xin thần lửa đừng giận, thậm chí còn phải gom khói để đền tội. Người Hách Triết, người Ngạc Luân Xuân còn cấm kỵ không được dùng chân đạp lửa, chà trên lửa. Rất nhiều các tộc người như người Hán, người Di, người Ngạc Luân Xuân, Ngạc Ôn Khắc, người Hách Triết đều cấm kỵ không được tự tiện bước ngang qua lửa, đặc biệt là đàn bà, và càng không được bước ngang qua đống lửa. Bình thường, khi phụ nữ đốt lửa làm cơm, thì không được ngồi chồm hổm hướng về phía ông táo, và cũng không được ném những thứ có mùi như hành tỏi vào trong lửa. Tộc người Cao Sơn còn cấm không để bệnh nhân ngồi ăn cơm nơi gần đống lửa.