Theo “Trung Hoa toàn quốc phong tục chí” thì, ở một dãy đất vùng Hà Bắc, Thiên Tân, người ta có phong tục tiếp đón mặt trời. “Tối ngày tám tháng sáu hàng năm, mọi người đều ở trong chùa miếu, cồng trống vang trời, khá là náo nhiệt. Tất cả phụ nữ lớn tuổi trong thôn trang đều tụ tập lại, vào lúc tối thì trú ở trong miếu, niệm kinh cầu Phật, mãi đến khi trời sắp sáng. Người ta bày án cúng, châm nến, đốt hương, hướng về hướng đông mà cúng tế, đợi đến khi mặt trời ló dạng mới thôi. Nếu như đó là ngày trời quang đãng, mặt trời nhô lên trong buổi sáng yên lành, thì người ta sẽ rất vui mừng, ngược lại, nếu như trời âm u, thì họ cho rằng đó là điềm bất cát, là điềm dị thường chỉ về sự tang tóc”. Vào thuở ban đầu, người ta hoàn toàn không biết gì về quy luật vận hành của các thiên thể trong vũ trụ, sợ rằng mặt trời sau khi lặn thì sẽ không mọc lại nữa, vì vậy mà phải cúng tế, phải tiếp đón mặt trời, đồng thời kiêng kỵ khi tiếp đón mặt trời mà trời thì lại âm u. Cho đến ngày nay, hiện tượng nhật thực và nguyệt thực trên các vùng đất khác nhau cũng đều thể hiện điểm này. Theo ghi nhận của “Phong tục thông nghĩa” thì: “Tục nói rằng, khi mặt trời mặt trăng bị ăn mà ăn uống thì sẽ khiến người ấy bị lở miệng”. “Khi mặt trời bị ăn, thiên tử không được cử nhạc”. Lời quê nói rằng: “Nếu không cầu xin trước nhật thực nguyệt thực, khi đi đường sẽ bị gặp mưa”. Tức có nghĩa là, khi mặt trời hay mặt trăng bị ăn thì không được ăn uống, không được cử nhạc, đồng thời cũng phải cầu xin cúng vái vậy.
Thời xưa, những Nho sĩ còn quy kết hiện tượng nhật thực nguyệt thực là do đạo đức, lễ nghĩa của nam nữ không được chỉnh sửa nên đã gây ra họa vậy. Trong “Lễ ký, Hôn nghĩa” có viết: “Do nam nữ không được giáo dưỡng, dương sự không thành, nên nhìn lên trời khiến mặt trời bị ăn mòn đi. Phụ nữ không thuận tòng, âm sự bất thành, lại nhìn lên trời, khiến trăng bị ăn mòn đi”. Trong dân gian còn có câu chuyện cho rằng hiện tượng nhật thực nguyệt thực là do con thiên cẩu (chó trời) nuốt mất. Bị ăn hoàn toàn rồi lại khôi phục lại ánh sáng thì được gọi là đã ị ra, tục cho như thế là không tốt, là điềm triệu của năm mất mùa; khi ăn không hoàn toàn và phục hồi lại ánh sáng thì được gọi là ăn không hết và ói ra, như thế là tốt, là điềm triệu của năm bội thu. Vì vậy, nếu gặp lúc mặt trời mặt trăng bị ăn thì người người đều gõ chiêng đánh trống, gõ nồi đánh mõ để khiến thiên cẩu bị kinh sợ, và thế là cứu được mặt trăng mặt trời.
Các tộc người có ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Altai ở phương Bắc thì rất phổ biến việc sùng bái mặt trời và mặt trăng. Người Ha Tát Khắc cấm kỵ không được quay mặt về hướng mặt trời mà đại tiểu tiện, vì cho rằng, đó là một hành vi hết sức bất kính. Dân gian thường cho rằng mặt trời có một ma lực đuổi được tất cả các loại ma mị. Nhưng khi mặt trời xuống núi, thì quỷ sùng sẽ lộng hành trở lại. Vì vậy, dân gian có rất nhiều cấm kỵ sau khi mặt trời lặn xuống núi. Các tộc người như người Hán, người Hani đều cấm không được quét nhà sau khi trời đã khuất sau dãy núi, vì cho rằng nếu quét nhà vào lúc này thì sẽ đẩy thần tài và các thiện thần khác ra khỏi cửa. Ban đêm, các hung quỷ, ác thần ở bên ngoài thì đầy rẫy, nếu như nhỡ quét thần tài và các thiện thần khác ra khỏi cửa thì họ sẽ không bao giờ quay lại nữa. Vì vậy mà người nhà ấy sẽ bị suy vi, khó mà hưng thịnh lại được nữa.
Người Hán còn cấm kỵ đi thăm người bệnh vào lúc mặt trời đã lặn (ở một vài nơi còn cấm kỵ vào lúc trời xế chiều hoặc khi nhá nhem tối). Vì cho rằng dương khí của người bệnh rất yếu, nếu thăm người bệnh vào lúc ban ngày trời sáng (tốt nhất là vào buổi sáng) thì có thể mang dương khí của mặt trời đến cho người bệnh, khiến tinh thần của người ấy được phấn chấn lên; ngược lại, nếu đi thăm vào buổi tối, âm khí nặng nề, càng không có lợi gì đối với người bệnh. Trong đêm khuya, còn kỵ không trả lời tiếng kêu của người khác, e rằng sẽ trúng vào cái bẫy của ma mị, sẽ bị chúng bắt đi chân hồn của mình. Ở một dãy vùng đất Đài Loan, người ta còn cấm kỵ không cho gội đầu, hái hoa, huýt sáo, thổi sáo, dùng kim chỉ v.v. vào lúc trời tối, những cấm kỵ này đều có quan hệ với tín ngưỡng sùng bái mặt trời. Người ta sợ nhất là phải ở trong tình thế không có ánh mặt trời, vì sợ sẽ chạm đến ma quỷ, gây ra nhiều chuyện hung họa.
Trong tập tục tế mặt trăng vào ngày mười lăm tháng tám âm lịch của người Hán và của một số tộc người khác, người ta cũng có một loại nghi thức sùng bái đối với mặt trăng. Xưa có câu nói rằng “nam không bái mặt trăng, nữ không tế ông táo”, đó là vì người ta cho rằng, mặt trăng là thần mang tính nữ, nếu để đàn ông bái lạy mặt trăng thì sẽ làm ô trọc thần mặt trăng.
Những điều mê tín về tinh tú cũng rất được phổ biến. Dân gian cho rằng, tinh tú trên bầu trời là có sự đối ứng với từng con người, gọi là “mỗi vì sao trên trời, là một người dưới đất”. Khi ở dưới mặt đất có một người được sinh ra thì trên trời cũng tăng thêm một vì tinh tú; trên trời có một vì sao tịch lạc thì dưới đất cũng sẽ có một người tử vong. Nếu vì sao sáng trên bầu trời mà vụt tắt thì người ta cho rằng ở dưới đất cũng sẽ có một vị đại tướng, một danh nhân hoặc một nhân vật hiển hách tử vong, thậm chí, đó là điềm triệu chỉ hoàng đế băng hà, chỉ quốc gia gặp nạn v.v.
Ở một số nơi, người ta cấm kỵ không được nhổ nước bọt khi có sao băng hoặc có cầu vồng. Bình thường, người ta kỵ không được dùng tay chỉ vào mặt trời, mặt trăng, đó cũng chính là tập tục cấm kỵ trong tộc người Hán và trong nhiều tộc người khác. Tục cho rằng, dùng tay chỉ vào mặt trời, mặt trăng là hành vi bất kính, sẽ mạo phạm đến thiên thần. Thần sao, thần mặt trăng vì thế mà sẽ giáng họa xuống người, nhẹ thì cắt tai người ấy, hoặc khiến cho mồm miệng bị lở thối, nặng thì sẽ khiến người ấy gặp tai họa vong thân. Thời xưa, người ta còn lưu truyền rất nhiều câu nói liên quan đến điềm triệu từ các vì sao, như “bốn sao tụ lại là điềm không lành, năm sao chụm lại là điều tốt đẹp”, “Thái Bạch qua trời, nhìn thấy ban ngày là nạn yêu ma”; “mặt trời hướng thẳng vào sao Thiên Đức, Thiên Ân, Nguyệt Đức thì đó là điềm tốt, nếu gặp sao Thiên Ngục, Thiên Hỏa, Thổ Ôn thì đó là điềm hung”.
Mê tín về tinh tướng được phổ biến nhất là việc người ta cho rằng sự xuất hiện của Tuệ tinh sẽ mang điều hung đến cho con người. Dân gian còn gọi Tuệ tinh là sao chổi, người xưa cho rằng đó là sao yêu. “Chiêm kinh” bảo rằng: “Tuệ tinh xuất hiện ở hướng đông thì tất có quân cướp, hạn hán”. Dân gian vì thế mà lưu truyền rộng rãi kiểu quan niệm cho rằng mỗi khi sao chổi xuất hiện thì đó là điềm triệu của mất mùa, bệnh dịch, chết chóc hoặc chiến tranh. Ngoài ra, điềm triệu của Thiên hà (Ngân hà) cũng là một loại mê tín của tinh tướng. Thời xưa, vùng Giang Nam có câu chuyện về chàng Ngưu ả Chức gặp nhau vào đêm mồng bảy tháng bảy, người ta có tập tục là nhìn vào Thiên hà để bói xem giá tiền của gạo mắc rẻ ra sao. Tục cho rằng, nếu nó mà sáng thì gạo rẻ, nếu nó mà tối thì gạo mắc. Nếu gạo mắc thì năm đó sẽ không tốt, vì vậy mà người ta cũng kiêng kỵ nó.