Dân gian tin rằng, cây cối thường là nơi mà thần linh ẩn tàng. Thời xưa, các tộc người Nỗ, người Ngoã, người Di, người Thái, người Chuang, người Hani, người Miêu, người Phổ Mễ, người Bố Y, người Bố Lãng, người Cảnh Pha, người Nạp Tây… đều có tập tục cúng tế thần rừng. Thần rừng thường ẩn tàng ở những rừng cây được cúng tế. Tục cho rằng, nơi ở của thần linh thì thánh thần không được xâm phạm. Cấm chặt phá, săn bắn, đặc biệt là đại tiểu tiện nơi này, nếu không thì sẽ xảy ra tai hoạ. Tộc người Hani, người Di, người Khổ Thông đều có tập tục “tế rồng”, cũng tức là “tế cây rồng”, “tế rừng rồng”. Bởi vì thông thường, người ta cúng tế vào ngày Thìn nào đó trong mùa xuân, vì vậy mới gọi là “tế rồng”. Bình thường thì không ai được đến gần rừng rồng, cũng không được bước vào rừng rồng. Thai phụ, sản phụ, những phụ nữ đang kỳ kinh nguyệt lại càng không được vào, cũng không được thả trâu, ngựa vào nơi này. Không được tự tiện động chạm đến cây cối, hoa cỏ, đất đá trong rừng rồng, càng không được chặt phá, làm tổn thương cành cây và lá cây của rừng rồng. Nếu không, người ta cho rằng sẽ mạo phạm đến Long thần, đó là điều dự báo không lành.
Đối với những cây đơn độc, nếu nó cao vút, to lớn và già cỗi, thì người ta thường cho rằng nó có linh tính, là nơi dừng chân của thần tiên, vì thế mà cũng thường bị cấm không cho chặt phá. Đặc biệt là cây cối gần ở miếu thần, nếu như chưa tế thần, chưa van vái trước, thì tuyệt đối cũng không được chặt. Người Hán cho rằng, bất kỳ một sự vật nào đó khi trải qua một thời gian dài đều sẽ thành tinh, vì vậy mà thường cho rằng trong cây hòe già, liễu già, cây đa già đều có ma mị tinh linh, vì thế không những không dám chặt mà còn đốt hương cúng vái. Đối với những cây đơn độc, người Ha Tác Khắc cũng rất sợ hãi vì cho rằng trong cây có ẩn tàng quỷ thần. Họ không dám nghỉ ngơi ở dưới cây, càng kiêng kỵ không chặt lấy nhánh cây của loài cây này. Nếu như có người bị bệnh, người ta bèn cho rằng đó là do quỷ thần trong cây làm sùng, cần phải treo một ít vải màu lên cây, để cầu xin quỷ thần dung thứ.
Người Dao cho rằng, trong cây cổ thụ thì có thần, vì vậy mà cấm kỵ không để chân đạp đến cây hay bẻ nhành cây. Truyền thuyết của người Băng Long kể rằng, khi Phật sống bay đến thì đầu tiên sẽ dừng lại trên cây đại thụ, sau đó mới được mời vào trong chùa Phật, vì thế mà người ta xem cây đại thụ là thần thánh, cấm kỵ không được chặt phá. Người Di gọi cây đại thụ lớn nhất là “thụ vương” (vua của cây). Có nơi còn cho rằng, thụ vương còn qui định ngày sinh nhật. Trong ngày sinh nhật của thụ vương, không được chặt củi, không được cắt cỏ, cũng không được nói tiếng Hán. Đối với tôc người Bố Lãng, nếu như cây đè chết người, thì người ta cho rằng “địa quỉ” không thích, nơi ấy không tốt, cần phải đến nơi khác mà chặt. Nếu như khi trở về nhà mà người chặt cây bị bệnh, thì người ta cũng cho rằng đó là do “sơn lâm quỷ” (ma rừng rú) tác quái, tinh linh đã dính vào người. Lúc này, cần phải làm một bàn cơm thịt, mời thầy vu thuật (pháp sư) đến để đuổi ma. Thầy vu thuật sẽ mang quần áo của người bệnh đến gần cây đại thụ đã chặt ngã để làm nghi thức cầu khấn và sẽ nói lời thỉnh tội thay cho người ấy.
Người Hán ở một vùng đất huyện Dư Hàng tỉnh Chiết Giang, từ thời xưa đã lưu truyền về phong tục trồng cây đồng linh. Sau khi trẻ được sinh ra, người ta sẽ trồng một cây tỳ bà ở một góc đầu sân nhà, gọi là “trồng cây đồng linh” (同齡: tức trồng cây cùng tuổi). Tục tin rằng cây đồng linh có một mối quan hệ liên đới nào đó với sự trưởng thành của trẻ và vận mệnh của nó sau này. Người ta thường cho rằng người và cây giao cảm với nhau, tức là sự tươi tốt hay khô héo, mạnh khỏe hay suy yếu đều cảm ứng với nhau. Người trong nhà ấy phải chăm chút vun đắp cho cây một cách cẩn thận, cầu mong cho nó mọc mầm mau lớn, cành lá sum xuê, quả sai nhúc nhỉu và kiêng kỵ để cây đồng linh chết yểu hay bị hủy hoại. Nếu không người ta cho rằng nó sẽ gây ra sự bất lợi cho người cùng tuổi với nó.
Ở vùng Hồ Bắc, dân gian thời xưa kiêng kỵ cây táo mọc đôi, tức là hai cây hợp sinh thành một. Theo niềm tin dân gian, nếu như vậy tất sẽ có vạ trộm cướp.
Bởi vì con người có một cảm giác thần bí nào đó đối với cây cối, vì vậy, khi sử dụng nó người ta cũng có một vài cấm kỵ. Người Ngoã kỵ dùng cây tươi để cắm vào hố nước. Nếu không người ta cho rằng tai sẽ bị điếc. Người Hán có tập tục kỵ dùng gỗ cây đa để làm quan tài. Người ta nói rằng, sở dĩ như vậy là vì chất gỗ của cây đa rất cứng chắc, mà thớ gỗ lại không thuận, tục có câu rằng “nốt sần trên cây đa không khai khiếu”, nên sợ rằng đứa con được sinh ra sẽ không thông minh hiểu biết; người khác lại bảo rằng đó là do lá cây đa, vỏ cây đa đều có thể ăn được, dễ bị mối mọt ăn, vì vậy mà dân gian thường không dùng loại cây này để làm quan tài. Ở Hà Nam, người ta còn kỵ không dùng gỗ cây táo để làm cửa sổ. Tục cho rằng táo có gai, mà gai thì giống như đinh, e rằng sau này trong nhà sẽ gặp nhiều chuyên rắc rối, sẽ bị đạp đinh (碰釘子: tức gặp điều bất trắc, xui rủi). Khi dựng nhà thì kỵ không dùng gỗ cây xoan để làm rường cột, bởi vì “cây xoan” (楝 liàn) lại hai âm với chữ “liễm”(殮liàn: tẩm liệm), e rằng sẽ gặp điều không tốt. Khi làm giường cũng kỵ dùng chân trống mà thích dùng chân mái, đó là do phản ứng tâm lý xem trọng đường con cái, e rằng sẽ không sinh sản được. Người Đạt Oát Nhĩ thì kỵ dùng cây bạch hoa để xây nhà và làm bánh lái gỗ. Người Ngoã thậm chí còn kỵ không đem những cây gỗ chưa khô vào nhà. Phụ nữ người Ngạc Ôn Khắc thì không được đốt gỗ mục, càng không được đốt một loại cây có tên gọi là “Cam Na Cách Dã”. Người ta bảo rằng, đây là loại cây rất hiếm thấy, nó là gỗ chuyên dùng để tạc tượng thần linh.
Do người ta tin rằng giữa cây và quỷ thần có một mối quan hệ mật thiết nào đó, nên từ đời Hán ở Trung Quốc đã lưu truyền tập tục này, tức là an ủi hồn phách người chết ngay ở cây được trồng trên mộ. Người ta tin rằng, cây tùng và cây bách trồng trên mộ có thể bảo vệ cho thi thể không bị những loài dã thú ăn mất, và có thể khiến cho di thể không bị mục nát. Cây tùng cây bách trồng ở phần đất mộ xanh tươi quanh năm thì cũng có ích cho vong hồn của người chết, vì thế, nếu như có ai đó đến hủy hoại cây trồng trên mộ của nhà nhà người ta thì nhất định đã phạm vào điều cấm kỵ.
Các tộc người như người Hán, tộc Ngoã đều có tập tục kỵ không dùng ngón tay chỉ vào nụ hoa của cây bông, không chỉ vào nhụy hoa của dưa cải. Người ta cho rằng, nếu dùng ngón tay chỉ vào thì hoa sẽ bị rụng, khó đậu quả, dưa cũng không kết quả được. Khi bắp ngô trổ bông mà gặp gió lớn thì người Túc Lật cấm không cho phụ nữ dệt vải và đàn ông không được chặt cây tre. Khi lúa đơm bông, cũng cấm không được giặt đồ hoặc bóc đậu mè. Nếu như phạm vào cấm kỵ, thì người ta cho rằng sẽ khiến cho hoa bị hoảng sợ dẫn đến giảm năng suất sinh sản.
Trong sản xuất lâu dài, trong thực tiễn sinh hoạt, mọi người đều biết rằng thực vật trổ bông theo mùa màng, thông thường là hoa nở vào mùa xuân. Nếu như hoa nở vào mùa đông, khi mà tuyết rơi đầy thì đó là một hiện tượng bất thường. Người ta sẽ luôn cho rằng, đó là một điềm xấu, gọi đó là “cây nở vào mùa đông là điềm triệu của năm mất mùa”, hoặc cho rằng đó là điềm suy bại của gia vận, của thế vận.
Khi lúa trổ bông, tộc Thủy cấm kỵ việc đốt sọt tre. Nghe bảo rằng, nếu làm như thế thì thu hoạch sẽ không được bao nhiêu, vì có lẽ là họ liên tưởng đến vật chứa đựng đã bị hủy rồi thì thần lúa sẽ không vui khi ban tặng thóc lúa cho con người.
Khi thu hoạch lúa, người Khắc Mộc ở Vân Nam cần phải cắt lúa bằng cả hai tay, cấm dùng gậy đánh, dùng chân đạp. Tục này cho rằng, thóc lúa có ơn nuôi dưỡng con người, nên con người không thể bạc đãi với nó được. Nếu như dùng gậy để đập, dùng chân để đạp lên, thì sẽ làm tổn thương thần lúa, và do vậy mà sẽ bị báo ứng.
Trong vụ thu hoạch mùa màng, nhất là trong bãi đập thóc thì cấm nói những lời bất cát bất lợi. Những người mê tín cho rằng, nếu nói năng không cẩn trọng sẽ đắc tội với thần lúa, sẽ khiến cho thóc lúa đã được đập ở bãi đập lại bị mất đi. Đối với những loại ngũ cốc đã được thu hoạch thì phải nhặt và đập một cách tỷ mỷ, không được vứt ném lãng phí, nếu không thần lúa sẽ trách tội. Người Hán, người Phổ Mễ đều có tín ngưỡng về thần thóc lúa như thế.