1. NHỮNG CẤM KỴ ĐỐI VỚI DÃ CẦM
Một số loài chim mà chúng ta thường thấy, tuy thuộc loại dã cầm nhưng cũng thường được người ta xem là loài có tính thần bí. Theo quan niệm thông thường nhất của dân gian Trung Quốc, sẻ kêu là điềm lành, quạ kêu là điềm dữ. Tục cho rằng chim quạ là loài chim dữ, khi gặp phải nó thì sẽ bất hạnh, nếu không có chuyện tranh cãi, thì cũng sẽ có chuyện chết chóc, thương tàn. Ở một vùng đất Chiết Giang, thời xưa còn có cách nói: quạ kêu đêm thì nên phòng hỏa hoạn. Chính vì vậy nên mới gọi là “con quạ bay qua đầu, nếu không tai thì tất có họa”. Đặc biệt hơn là quạ đầu trắng, vì nó có vẻ như đang mang tang phục, nên vì thế mà càng kiêng kỵ. Người Ngạc Ôn Khắc thì cho rằng điềm báo từ tiếng quạ kêu là không thống nhất với nhau, ngược lại có sự phân biệt cát hung. Nếu tiếng kêu của nó nghe như tiếng bị sặc nước thì đó là điềm tốt lành, nếu không thì là điềm báo của hung họa, sẽ có sói đến hoặc sẽ có súc vật chết.
Tục cho rằng chim cú là một loài chim dữ. Người Hán, người Ngạc Ôn Khắc đều có thói quen kỵ tiếng kêu của cú. Tục cho rằng, cú kêu là một điềm dữ, dự báo rằng súc vật sẽ bị bệnh hoặc chết. Nhưng có nơi cũng phân biệt tiếng kêu của cú trong thời gian nào và ở phương hướng nào, cho rằng “ban ngày kêu thì sống, ban đêm kêu thì chết”; còn có nơi thì phân biệt theo mùa, gọi là “mùa xuân kêu thì chết, mùa thu kêu thì có con”; còn có nơi thì không sợ tiếng kêu của cú, mà là sợ tiếng cười của cú, nên có câu “không sợ thốc điêu (tên tục của chim cú, còn gọi là thốc ưng) kêu mà sợ thốc điêu cười”. Tuy là có những sự phân biệt như vậy, nhưng thường thì người ta khó mà phân biệt rõ ràng cho được, nên chỉ cần nghe tiếng chim cú kêu thì đã cảm thấy bất cát bất tường. Khi nghe thấy tiếng cú kêu, lúc nào người ta cũng nguyền rủa nó, như “cú kêu thì cú chết, nên trên mặt cú mới trắng tóa như tờ giấy”, nhằm tránh dữ cầu lành.
Đối việc kỵ nghe một số tiếng chim ấy kêu, thì ngoài chim cú ra, người ta còn kỵ cả chim trác, thời xưa, người vùng Chiết Giang cho rằng, trác kêu vào ban đêm là có hỏa hoạn. Còn khi nghe thấy tiếng chim quỷ xa, hay còn gọi là chim chín đầu kêu thì người nghe cũng sẽ gặp phải điều dữ. Truyền thuyết vùng Chu Sơn kể rằng, khi nghe thấy tiếng chim chín đầu kêu thì ở gần đó sẽ có hồn độc ma hoang. Thời xưa, người của vùng An Huy cho rằng, nếu sáng sớm mới ngủ dậy mà nghe thấy tiếng kêu của chim sa hòa thượng (tên một loại chim thích ăn thịt), thì tất phải bệnh. Ban đêm mà nghe tiếng chim quán kêu thì sẽ có hỏa hoạn. Thời xưa, người ta còn kỵ nghe tiếng chim bá lao kêu. Còn tộc người Mãn thì kỵ nghe thấy tiếng chim sẻ đồng kêu náo động, tục cho rằng như thế là điềm có ẩn hỏa hoạn, rắn độc hay bệnh dịch. Đối với người Hani, sau tết “Lý Mã chủ” vào mùa xuân, cần phải chọn ra một ngày tốt, khi mà chim sẻ đồng vẫn chưa rời tổ, khi khắp bốn vùng núi non yên tĩnh vào lúc canh năm, thì lấy ba bó mạ cắm vào ruộng của nhà mình, gọi là “khai ương môn” (mở cửa mạ). Dân gian cho rằng, nghe thấy tiếng chim sẻ đồng kêu khi “mở cửa mạ” thì mùa màng sẽ gặp phải điều tai họa. Trong khi đó, trước khi ra khỏi cửa thì người Ngõa cần phải nghe thấy tiếng chim kêu để bói cát hung. Thông thường là, chim kêu ở phía bên phải thì báo điềm dữ, kêu ở phía trước thì báo điềm lành, nếu kêu ở phía sau lưng thì báo điềm dữ. Phàm những điềm được báo là dữ, là xấu thì cần phải thay đối kế hoạch, không ra ngoài nữa.
Có rất nhiều loại chim mà người ta cấm kỵ không bắt thịt, duyên cớ cũng khác nhau. Người Ngạc Luân Xuân không bắt chim hồng nhạn, là bởi vì chim hồng nhạn luôn sống thành từng cặp trống mái, nếu đánh chết một con, thì con kia sẽ biến thành hồ nhạn (nhạn cáo). Người Mông Cổ ở Vân Nam thì xem chin én là chim cát tường, vì vậy mà én vào nhà là điềm tốt, én không vào nhà thì đó là điềm xấu. Cấm không được đánh chim én, cho rằng, nếu đánh én thì đầu sẽ trọc hết tóc. Người Hách Triết thì kỵ không bắt chim sẻ khi nó bay vào trong nhà, tục cho rằng, chim sẻ là vong hồn của trẻ em biến ra, nếu nó bay đến thì linh hồn ấy sẽ chuyển thế, nếu bắt giết nó thì sẽ mang họa, không sinh con đẻ cái được. Trong niềm tin của dân gian, thì chim ưng điêu cũng mang một vẻ thần bí nhất định. Nó luôn tượng trưng cho sự dũng mãnh, mạnh mẽ, nên người Tạng xem ưng điêu là chim thần, cấm không được bắt giết nó, đặc biệt là không được đánh chim ưng điêu nơi gần chùa miếu. Người Di thì kỵ không nhìn chim ưng bắt gà rừng. Tộc người Hán, người Mông Cổ vẫn còn tàn tích sùng bái đối với chim ưng điêu, cấm vì sơ suất mà làm thương chim điêu.
Do tính thần bí của loài dã cầm, nên người ta thường kỵ không nhặt xác chim bên đường, càng kiêng kỵ không đem xác chim chết từ trên núi cao, ngoài rừng hoang mang về nhà. Gặp xác chim chết cũng kỵ không nói cho người thân biết, đặc biệt là vào tháng giêng thì càng kiêng kỵ. Phân chim vãi xuống nhà cũng là điềm không lành, tục gọi là “vận ách phân chim”, là chuyện xui xẻo nhất. Nếu vào ngày mùng một tháng giêng, lần đầu tiên ra khỏi nhà trong năm mới, hoặc là vào mùng một, mười lăm của các tháng thường mà gặp phải chuyện như vậy thì càng lo lắng không yên. Từ thời xưa, nhiều tộc người như người Hán, người Thủy đều có tục này. Ở một vùng đất đảo Đài Loan, nếu phân chim mà rơi ngay trên đầu, thì cần phải ăn miến chân lợn mới có thể giải được tai họa. Ở huyện Lâm tỉnh Hà Nam, nếu bị chim thải phân lên người, người ta thường dùng kim thép chọc ba cái lên nơi phải phân chim, lấy đó làm phương cách phá giải.
2. NHỮNG CẤM KỴ ĐỐI VỚI DÃ THÚ
Đối với một số loài dã thú hung mãnh có khả năng uy hiếp sự an toàn đối với sinh mệnh con người, như báo, hổ, sài, lang, con người cũng nảy sinh một sự sùng bái đối với chúng, nhưng trên thực tế thì người ta sợ hãi hơn là kính trọng chúng. Khi ra ngoài, người tộc Bạch kỵ nhắc đến hổ, báo, sài, lang. Người Ngạc Luân Xuân cũng không kêu thẳng ra tên của chúng, mà gọi chúng là “Nặc Nhan” (con quan), hay “Bác Như Khản” (thần)… Bình thường, nếu người Đạt Oát Nhĩ phát hiện ra dấu chân hổ thì kỵ không đi về phía trước. Nếu không, hổ sẽ nhận thấy rằng có người đang đến đọ sức với nó, và nó sẽ đến viếng người ấy. Người Di thì kỵ không nhìn báo đang ăn thịt hoẵng. Người Ngạc Luân Xuân, Đạt Oát Nhĩ đều tránh không gọi thẳng tên của sói, mà gọi nó là “con to miệng”, hoặc dựa theo tiếng kêu của nó mà gọi nó là “ông”. Tục cho rằng, nếu gọi thẳng tên của nó ra, thì con sói sẽ ngứa ngáy thân mình, cảm thấy có người đang chì chiết nó, và nó sẽ đi hại người ta.
Người Ngạc Luân Xuân, Ngạc Ôn Khắc đều rất sùng bái con gấu, và trong dân gian cũng đã lưu truyền rất nhiều những truyền thuyết cho rằng gấu là tổ tiên của con người. Người ta kỵ không cho gọi thẳng tên của nó ra, mà phải gọi bằng tên khác, như ông tổ, bà tổ, ông cậu, ông già. Khi săn gấu, khiêng gấu, giết gấu, ăn thịt gấu cho đến chôn gấu, cúng tế gấu, người ta cũng có nhiều quy ước cấm kỵ. Thời xưa, tộc người Hán thường xem gấu là loại hung thú, nhưng cũng tin rằng gấu cũng có chức năng là dự báo hỏa hoạn.
Đối với người Ngạc Luân Khắc, khi phát sinh bệnh truyền nhiễm thì mọi người phải tuân thủ theo một hệ thống những cấm kỵ. Ví dụ như cấm không được cắt đứt khớp của hươu, ngạn; không được cắt lưỡi, ruột, phổi, gan, thực quản, sinh thực khí của hươu, ngạn; cấm không để người bệnh nhìn thấy thịt sống v.v. Nếu không, bệnh tật sẽ lan tràn một cách nhanh chóng. Khi săn được hoẵng, thì người Hani nhất định phải xem vị trí của cái lưỡi con hoẵng sau khi chết thè ra là ở đâu, nếu lưỡi hoẵng mà thè ra ở bên phải thì chủ săn sẽ được mùa thu hoạch, còn nếu lưỡi thè ra bên trái thì dự báo rằng chủ săn chỉ có săn mà không có thú, vì vậy mà cũng có chút kiêng kỵ.
Cái gọi là “tứ đại gia”, “ngũ đại môn” mà dân gian xưa sùng bái là cách nói thường chỉ đến năm loài động vật gồm cáo, sói, chuột vàng, nhím, rắn, chuột (tứ đại gia thì không có chuột). Người ta đều cho rằng, những động vật này đều có linh tính, chúng đều thay mặt cho ý chí của tiên gia, thần quỷ; nếu mạo phạm đến chúng thì sẽ ảnh hưởng đến sự hưng suy hung cát của tất cả các nhà. Bình thường, người ta cố gắng tránh chúng, kỵ không gọi thẳng tên của chúng. Khi vô tình nhìn thấy chúng thì cần phải nói vài câu chúc nguyện, xin nó đi xa. Nhằm không mạo phạm đến những vị tiên gia này, người ta kỵ không tạt nước, tiểu bậy trong nhà. Đặc biệt là những phụ nữ đang có kinh nguyệt thì càng phải kiêng tránh chúng, nếu không sẽ mạo phạm đến thần tiên, sẽ mang điều bất hạnh đến cho người trong nhà.
Về chuột thì trong dân gian cũng có nhiều cầm kỵ. Do chúng lanh lẹ, khôn ngoan, khứu giác nhạy bén, nghe nói chúng còn biết điều cơ mật, biết hung biết cát, vì vậy mà chúng ta không được đắc tội với nó, thậm chí là không được ghét chúng. Thời xưa, ở một dãy đất ở Sùng Minh, người ta kỵ không nhìn chuột bị trượt ngã. Nếu phụ nữ nhìn thấy chuột ra ngoài kiếm ăn mà rơi từ trên cao xuống, thì cho rằng bệnh tật cũng theo nó mà giáng xuống, cần phải đi đến một nhà ven đường trong làng xin một ít gạo trắng về nấu ăn, như thế mới có thể giải được nạn. Tục ngữ có câu “Nam sợ rắn té, nữ sợ chuột rơi”.
Thường thì chuột có màu xám, nếu như gặp chuột trắng thì cho rằng đó là điều bất thường, là điềm dữ, là chủ của việc hỏa hoạn hay của những điều bất trắc. Tục ngữ bảo “chuột chạy qua đường, người hét người đánh”, nhưng đối với một số loài chuột đồng thì lại được sùng bái một cách đặc biệt. Ví dụ như người Bố Lang thì sùng bái chuột tre, vì cho rằng, chuột tre là linh hồn của tổ tiên. Khi nó bò ra khỏi hang thì không được đánh nó, mà phải tránh ra xa, nếu không, người thân của mình cũng sẽ bị chết.