Vu Đan là ai ?
Vu Đan (Yu Dan) 42 tuổi, người Bắc Kinh, thạc sĩ văn học cổ điển TQ, tiến sĩ ngành điện ảnh-truyền hình; hiện là giáo sư, chủ nhiệm Khoa Truyền thông điện ảnh-truyền hình trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh (ĐHSPBK), trợ lý giám đốc Viện Nghệ thuật và Truyền thông của trường này. Bà dạy các môn: văn học cổ điển TQ, khái luận môn điện ảnh-truyền hình và trào lưu tư tưởng lý luận truyền hình. Bà nổi tiếng giỏi dàn dựng và viết bài cho các chương trình điện ảnh-truyền hình. Vu Đan từng được tặng các danh hiệu Giảng dạy ưu tú thành phố Bắc Kinh 1996, Giáo viên ưu tú năm 2001, một trong 10 giáo viên ưu tú trường ĐHSPBK. Bà đã viết một số tác phẩm và nhiều bài báo với tổng số hơn 100 nghìn chữ.
Sinh ra trong một gia đình có cha là nhà nghiên cứu văn học cổ TQ, từ năm lên 4 tuổi, Vu Đan bắt đầu nghiện đọc sách, đọc cả Luận Ngữ của Khổng Tử. 8 tuổi, cô đọc Hồng Lâu Mộng và tiểu thuyết của Balzac… Ông bố không cấm con đọc bất cứ sách nào trong tủ sách của ông. Về sau, nghe lời bố, Vu Đan làm luận án thạc sĩ về đề tài văn học thời kỳ Tiên Tần Lưỡng Hán; qua đó bà cho rằng toàn bộ trí tuệ hơn hai nghìn năm sau đấy đều chưa qua mặt được thời kỳ này. Khi đài truyền hình Trung ương mở Diễn đàn Trăm nhà, Vu Đan liền lên Diễn đàn đó nói cho mọi người biết: những lời của Khổng Tử, Trang Tử chính là các “công thức” của cuộc sống mà người TQ đang tìm kiếm.
Hiện tượng Vu ĐanTrong tuần nghỉ Quốc khánh 1/10/2006, Vu Đan xuất hiện trong chương trình Diễn đàn trăm nhà của Đài truyền hình trung ương TQ, thuyết trình 7 buổi liền về chủ đề Thu hoạch đọc sách Luận Ngữ, được hàng trăm triệu người xem hoan nghênh. Cuối tháng 11, các bài nói này được in thành sách Thu hoạch đọc Luận Ngữ của Vu Đan (“Vu Đan Luận Ngữ tâm đắc”) và xuất bản. Ngay trong tuần lễ đầu tiên, 600 nghìn cuốn bán hết veo; chỉ trong vài tháng 3 triệu cuốn “biến” khỏi các hiệu sách, lập một kỷ lục về xuất bản. Đến dịp Tết Nguyên đán Đinh Hợi, Vu Đan lại lên truyền hình thuyết trình cả tuần liền đề tài Thu hoạch đọc Trang Tử, cũng rất thu hút người xem trong 7 ngày nghỉ Tết. Cuốn sách cùng tên ngay lần in đầu cũng bán được 1 triệu bản ! Thật là một hiện tượng hiếm có. Là tác giả hai cuốn sách trên, Vu Đan nhận được hàng triệu Nhân dân tệ tiền bản quyền (hàng tỷ đồng Việt Nam).
Thành công của Vu Đan dấy lên một cuộc tranh luận toàn TQ. Một phe nói việc Vu Đan giảng Luận Ngữ đã mở ra cục diện mới cho việc truyền bá văn hóa truyền thống TQ, tiếp sức sống mới của nền văn hóa đó cho sự phát triển xã hội đương đại. Phe phản đối nói “Thu hoạch đọc Luận Ngữ” của Vu Đan chỉ là “món ăn nhanh (fastfood) văn hóa” mà thôi, có nhiều chỗ sai sót. Tháng 3 vừa rồi, 10 vị tiến sĩ của hai trường danh tiếng nhất TQ là đại học (ĐH) Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa liên danh tuyên bố “sẽ chống bọn Vu Đan tới cùng vì tội khinh mạn nền văn hóa truyền thống”…
Nhìn chung lời khen nhiều hơn, nhất là các báo lớn. Phó Chủ tịch Quốc hội TQ Hứa Gia Lộ nói Vu Đan đã có 4 cống hiến lớn: Thứ nhất, thức tỉnh ký ức của dân tộc. Đọc sách của bà, nhiều người bảo: Thì ra Khổng Tử từng nói nhiều câu hữu dụng như vậy đấy. Thứ hai, thúc đẩy dân tộc Trung Hoa trở về với cái gốc văn hóa của mình. Thứ ba, đưa học thuật cao sâu ra khỏi “tháp ngà” đến với quần chúng. Thứ tư, thúc đẩy mọi người đọc sách, ít nhất 3 triệu người được đọc Luận Ngữ... Giáo sư triết học Thang Nhất Giới nói: Tôi ủng hộ Vu Đan; tuy có chỗ nói sai nhưng bà ấy làm được một việc có ích cho xã hội là đã kết hợp văn hóa tinh anh với văn hóa đại chúng.
Vì sao Vu Đan thành công lớn như vậy ?
Về khách quan, Đài truyền hình trung ương đã tận dụng thế mạnh của phương tiện truyền thông điện tử hiện đại này và thiết kế chương trình rất công phu, làm cho các buổi giảng của Vu Đan đặc biệt hấp dẫn. Sách “Thu hoạch đọc Luận Ngữ của Vu Đan” được biên tập, trang trí hoàn hảo; ngoài việc in toàn văn Luận Ngữ ở cuối sách ra lại còn có nhiều tranh minh họa rất đẹp do một danh họa thực hiện. Ngành phát hành cũng chú trọng tuyên truyền quảng cáo sách của Vu Đan với bạn đọc trong cả nước. Về chủ quan, Vu Đan tỏ ra rất có tài thuyết phục người nghe, giọng nói và cử chỉ đầy sức hấp dẫn, duyên dáng, gần gũi thân mật; đạo lý thánh hiền cao siêu được bà giảng giải một cách dễ hiểu, mạch lạc, sinh động, có liên hệ với cuộc sống thường ngày. Viện trưởng Viện văn hóa cổ điển Diệp Gia Doanh khen: Tôi thấy Vu Đan nói rất đàng hoàng, không phải kiểu làm duyên và huênh hoang của phụ nữ bình thường; bà có khí phách anh hùng, để lại cho người ta cảm giác chân thành...
Song lý do chính khiến người TQ say mê Vu Đan là do bà nói về đề tài họ đang quan tâm: phục hưng văn hóa truyền thống – một vấn đề động chạm tới tinh thần dân tộc của họ. Vì Vu Đan giảng Luận Ngữ – sách kinh điển Nho giáo quan trọng nhất, nên họ hy vọng bà sẽ châm ngòi cho sự phục hưng đó. Quả vậy, cơn sốt Quốc học đã tăng nhiệt. Giáo sư triết học lão thành Dư Đôn Khang ở Viện Khoa học Xã hội TQ nói “Chúng ta chờ đã 50 năm, giờ đây thời đại phục hưng văn hóa TQ rốt cuộc đã đến !”
Trước ý kiến phê phán của phe phản đối, Vu Đan nói bà kính trọng nhưng không sợ Khổng Tử và các sách kinh điển; bà muốn mọi người “Kính mà gần” với các sách ấy chứ không “Kính mà xa” như trước. Bà nói “Tôi đang lấy danh nghĩa dân chủ giúp mọi người cùng hưởng sức hút của văn hóa… Mong mọi người có thể nhớ việc tôi làm và quên con người tôi, hạ nhiệt cho cơn sốt Quốc học”. Vu Đan có nhiều hoạt động như tặng sách; đến đội Bóng bàn quốc gia nói chuyện, liên hệ triết lý Luận Ngữ với các vấn đề ngày thường của cầu thủ; vào trại giam giảng cho phạm nhân nghe lời của Khổng Tử “Sai mà không sửa mới là sai”. Bà sang Đài Loan đối thoại với công chúng; báo “Liên Hợp” ở Đài Bắc đưa tin này viết “Bạn đọc Đài Loan có phúc rồi”…
Cơn sốt Quốc học và khát vọng phục hưng văn hóa truyền thống TQ Người TQ quen gọi nền văn hóa truyền thống của họ là Quốc học, để phân biệt với Tây học, khi văn minh phương Tây du nhập vào TQ hồi đầu thế kỷ XX. Nền văn hóa truyền thống của TQ có lịch sử 5000 năm, nội dung rất phong phú, từ triết học, văn học, quốc họa… cho tới văn hóa ẩm thực, khí công, thuốc Bắc (tức Trung y), là niềm tự hào lớn nhất của người TQ.
Cốt lõi của văn hóa truyền thống là văn hóa tư tưởng, vì nó có tác dụng chi phối các loại hình văn hóa khác. Tư tưởng truyền thống của TQ có 3 phái chính là Nho gia (còn gọi Nho giáo), Đạo gia và Pháp gia. Nho giáo ra đời cách đây 2500 năm có ảnh hưởng lớn và sâu sắc nhất với Quốc học và đời sống tinh thần của dân tộc Trung Hoa. Ông tổ của Nho giáo là Khổng Tử, cho nên phương Tây gọi Nho giáo là Khổng giáo (Confucianism). Cụ để lại 6 tập sách Thư, Thi, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu (gọi là Lục Kinh). Sau khi cụ mất, các đệ tử chép lời cụ dạy thành sách Luận Ngữ, được coi là kinh điển số 1 của Nho giáo; tương đương như Kinh Thánh ở phương Tây. Học thuyết Khổng Tử được nhiều người kế thừa và phát triển, đáng kể nhất là Mạnh Tử; học thuyết Tính thiện luận của cụ là quan điểm chính thống suốt thời đại phong kiến TQ. Bởi vậy, nói phục hưng văn hóa truyền thống TQ (hoặc Quốc học) là nói phục hưng Nho giáo. Đây là một chặng đường gian nan, gập ghềnh khúc khuỷu và kéo dài.
Giữa thế kỷ XIX, văn minh phương Tây bắt đầu du nhập vào TQ. Lần đầu tiên được tiếp xúc với các nội dung tiên tiến như khoa học kỹ thuật, dân chủ tự do … của phương Tây, người TQ lóa mắt, thấy mình quá ư lạc hậu. Sức mạnh tinh thần của của văn minh phương Tây cộng với tàu chiến và đại bác đã chiếm thế áp đảo tuyệt đối. Các nhà trí thức TQ tiên tiến phát hiện nền văn hóa truyền thống của mình thua kém văn hóa phương Tây; chính họ đã phê phán mạnh nhất văn hóa TQ và chủ trương học phương Tây, đưa TQ tiến lên hiện đại hóa, vì chỉ có thế TQ mới đủ sức chống lại sự xâm lược của các đế quốc Âu Mỹ. Họ coi Nho giáo, Đạo gia, Pháp gia, Phật giáo… đều không thể cứu được TQ, mà còn là vật cản trở TQ tiến lên hiện đại hóa. Do Nho giáo bị phê phán ngót một thế kỷ, nhiều người TQ trở nên xa lạ với nó.
Thời Ngũ Tứ (1919), phần lễ giáo của Nho giáo bị chê trách nhiều nhất. Lỗ Tấn nói thanh niên chớ nên đọc sách TQ, đọc sách nước ngoài xong thì bạn trở nên tự cường, phấn đấu, đấu tranh; đọc sách TQ xong thì bạn không cầu tiến, chỉ nhẫn nại. Ngô Trĩ Huy hô hào: “Vứt hết sách cổ vào toa-lét”. Đặc biệt, một số người trẻ rất ghét chữ Hán và văn hoá TQ, cho rằng vì chữ Hán khó học, chỉ một thiểu số tinh anh học được, nên họ mặc sức áp bức quần chúng, do đó sinh ra chính trị chuyên chế. Mao Trạch Đông nói “Lối thoát của chữ Hán là La tinh hoá”. Tiền Huyền Đồng còn yêu cầu người TQ học tiếng Anh, bỏ tiếng TQ. Tóm lại, trong một thời gian dài, giới trí thức TQ có thái độ chống văn hóa truyền thống, coi nó như một gánh nặng, muốn quẳng nó đi.
Nặng nề nhất là việc phát động phong trào cả nước phê phán Khổng Tử hồi cuối thời kỳ “Cách mạng văn hóa” (1966-1976). Cả đến cỗ quan tài hoàng đế Trung Hoa thời cổ đặt dưới cung điện ngầm cũng bị Hồng vệ binh đập phá, quẳng ra ngoài đồng.
Từ năm 1979 TQ bắt đầu cải cách mở cửa. Người nước ngoài kéo nhau đến du lịch và yêu cầu được thăm Khổng Miếu. Nhưng Hồng vệ binh đã đập phá gần hết các đền miếu chùa chiền rồi. Phó chủ tịch nước Lý Tiên Niệm yêu cầu tạp chí “Nghiên cứu Lịch sử” viết bài phục hồi Khổng Tử. Lãnh đạo báo này cân nhắc mãi mới dám viết một bài với nội dung chỉ ca ngợi Khổng Tử là nhà giáo dục vĩ đại vì đã thực hiện giáo dục tư thục và có 3000 đệ tử, chứ không dám đả động đến tư tưởng của Đức Khổng. Rất may là sau đó tình hình sáng sủa dần. Khổng Miếu giờ đây đã được khôi phục, quy mô cực kỳ hùng vĩ, là điểm du lịch nóng của TQ.
Ngày nay người TQ ra sức ca ngợi Nho giáo, dường như họ đã tìm ra được vô số quan điểm của đạo Khổng Mạnh có thể giúp ích cho việc hiện đại hóa và thống nhất TQ, nâng uy tín quốc tế của TQ. Đặc biệt gần đây tình trạng thế giới bất ổn: xung đột và chiến tranh tăng dần, trái đất bị ô nhiễm nặng, đời sống nhân loại ngày một căng thẳng do lối sống công nghiệp, đạo đức xã hội suy đồi…, người TQ tìm thấy ở Nho giáo các quan điểm có thể giúp giải quyết tình trạng trên. Như quan điểm Thiên nhân hợp nhất (con người và thiên nhiên là một) chủ trương nhân loại phải tôn trọng thiên hiên, không được khai thác tới mức tàn phá thiên nhiên. Hoặc quan điểm Nhân chính học của Mạnh Tử chủ trương người làm chính trị phải biết thương dân …
Một cơn sốt Quốc học lại dấy lên từ thập niên 90. Người TQ đề xướng đọc Tam Tự Kinh, Luận Ngữ, Lão Tử, Trang Tử… Các trường ĐH đều mở lớp hoặc Viện Quốc học. Cuối năm ngoái, Khoa Triết trường ĐH Bắc Kinh mở Lớp Quốc học Càn Nguyên, chuyên dạy các “sếp”, học phí cao tới 3000 USD mà vẫn không đủ chỗ nhận học viên. Hàng trăm giám đốc công ty đáp máy bay từ khắp nước đến Bắc Kinh để học. Chính phủ TQ quyết định bỏ tiền mở 100 Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới, nay đã lập được hơn 60. Báo chí thi nhau mở trang Quốc học; truyền hình mở diễn đàn Quốc học… Vu Đan xuất hiện đúng dịp sốt này nên được nhiều người hoan nghênh.
Từ năm 1949, sau ngót 6 thập kỷ xây dựng, giờ đây TQ đã là cường quốc kinh tế, chính trị và quân sự. Chỉ dăm năm nữa, nền kinh tế TQ sẽ đứng thứ hai toàn cầu. Nhưng văn hóa TQ vẫn chưa giành được vị trí tương xứng: về khoa học chưa có giải Nobel khoa học (4 nhà khoa học gốc Hoa từng đoạt giải Nobel đều có quốc tịch nước ngoài), văn học chưa có giải Nobel văn chương, điện ảnh chưa có tượng vàng Oscar. Một số tác phẩm văn học TQ khen thì phương Tây lại chê. Thậm chí văn học đương đại TQ còn bị nhà Hán học người Đức Wolfgang Kubin bảo là “rác rưởi”. Trung Y chưa được thế giới thừa nhận, có người cho là bịp bợm …
Người TQ mong mỏi nền văn minh 5000 năm của mình đua tranh ngang ngửa với văn minh phương Tây thống trị thế giới mấy thế kỷ qua. Nhà nước TQ cũng mong người Hoa khắp thế giới đều nhất trí tự hào về nền văn hóa truyền thống của mình, qua đó xích lại gần nhau, tạo điều kiện thống nhất Tổ quốc. Khát vọng ấy ngày càng cháy bỏng khi giấc mơ nước lớn của TQ đang trở thành hiện thực nhãn tiền.
Rõ ràng, để thực hiện nguyện vọng này họ sẽ phải đi một chặng đường dài, vì Nho giáo có nhiều điểm không thích hợp với xã hội ngày nay. Muốn phục hưng văn hóa truyền thống, người TQ cần tiếp thu các mặt tiên tiến của văn hóa nước ngoài, phát huy tinh hoa đồng thời vứt bỏ các cặn bã của của đạo Khổng Mạnh. Song dù thế nào họ cũng phải hết sức coi trọng văn hóa truyền thống, vì đó là cái gốc của họ. Mất gốc là mất tất cả, người TQ không thể quên bài học thời Đại Nhảy vọt (1958): cả nước đua nhau lập công xã nhân dân, không còn lấy gia đình làm cơ sở của xã hội như cũ nữa; hậu quả là không có cơm ăn. Khi cải cách mở cửa, nhờ chính sách khoán hộ gia đình, nhà nước chẳng mất một xu nào mà chỉ sau hai năm cả nước đủ ăn. Tất cả chỉ vì đã biết phục hồi gia đình như là nhân tố cơ bản của văn hóa truyền thống TQ.
Nguồn: dongtac.net