Đối với tộc người Hán, khi có khách đến nhà thì cần phải chủ động ra đón tiếp, chào hỏi, mời ngồi, kỵ không nói gì và không thèm để ý đến khách, hoặc là chỉ lo nói mà không mời khách ngồi. Sau khi khách ngồi thì kỵ không được lau bàn, quét nhà, hoặc chỉ luôn miệng mời khách uống trà mà thực ra là không rót trà, hoặc nói chuyện cả buổi mới rót trà mời khách. Tất cả những điều này đều là biểu hiện của ý “đuổi khách”, là một điều bất kính đối với khách, không hoan nghênh khách. Nếu là khách là người tôn quý, thì ngoài việc bưng mời trà, mời thuốc ra, còn phải thết rượu, cơm để tiếp đãi. Thông thường có các kiểu tiếp đãi khách là “trà ít, rượu đầy, thuốc nguyên hộp”. Khi mời trà, rượu, thuốc thì cần phải đưa bằng hai tay, kỵ đưa bằng một tay. Nếu kính khách bằng điếu tre thì phải lau sạch đầu thuốc, nhét sợi thuốc vào và phải chủ động châm thuốc cho khách. Khi châm thuốc thì kỵ châm cho ba điếu thuốc chỉ bằng một que diêm. Khi cần châm trực tiếp giữa hai điếu thuốc, thì cần cầm đầu hút (tức phần gốc điếu) cho khách, kỵ không đưa đầu điếu trực tiếp cho khách. Kính rượu cho khách uống càng nhiều càng tốt, kỵ việc chỉ một mình uống mà không mời khách, khi thết tiệc đãi khách thì kỵ để con cái cùng ăn chung bàn, càng cấm kỵ đối với vợ và con gái. Khi đãi khách, thì thường kỵ để số lượng món là số lẻ, mà thích số chẵn, để lấy ý “việc tốt thành cặp”. Thết đãi khách kỵ nhất là không có rượu. Người Ngoã có cách nói rằng “không rượu không thành lễ, nói sẽ không giữ lấy lời”.
Thứ tự vị trí ngồi (ngôi thứ) khi thết đãi khách là một điều rất được dân gian xem trọng. Đầu tiên là phải đặt đúng vị trí cho bàn tiệc. Trong dân gian có câu “Bàn tiệc không ngay không ngồi”. Nếu thết tiệc trong nhà hướng Nam Bắc, thì phải đặt vị trí sao cho khe hở giữa các bàn nằm theo hướng Đông Tây, kỵ để các vị trí sai phương hướng. Đối với ngôi thứ thì cũng phải sắp xếp theo trật tự thuận của tuổi tác và đức độ, người lớn tuổi mà đức cao vọng trọng, sang quý mà lương thiện thì ngồi ở trên, chủ nhà thì khiêm tốn nên thường ngồi ghế dưới. Việc ngôi thứ sai lệch là một điều đại cấm kỵ khi thết đãi yến tiệc trong xã hội. Đối với tộc Tạng, tộc Mông Cổ ở tỉnh Thanh Hải, khi thết yến tiệc thì người trần tục không được ngồi ở ngôi trên dành cho tăng nhân, mục dân không được ngồi ở ngôi trên dành cho thủ lĩnh đứng đầu; phụ nữ không được ngồi ở ngôi trên dành cho đàn ông.
Nếu đến chơi nhà người bạn cùng thầy học thì cũng cần phải chú ý đến rất nhiều phong tục lễ tiết. Thời xưa, người Hán quen đến thăm vào trước buổi trưa. Nếu đến chơi vào lúc xế chiều hoặc nhân việc gì đó mà đến chơi cũng đều tỏ vẻ không kính trọng, người ta cho đó là “tàn bộ” (bước chân còn dư lại) vậy, nhất là đối với những nhà sang trọng tôn quý, thì cần phải kiêng kỵ hơn. Ở khu vực làm nghề chăn nuôi gia súc như tộc Ha Tát Khắc, tộc Mông Cổ, tộc Hà Nhĩ Khắc Tư, tộc Tháp Cát Khắc, người ta thường cưỡi ngựa để qua lại và chơi với nhau. Nếu đến nhà người khác làm khách, thì kỵ không được phi ngựa sắp đến trước cửa nhà người ta rồi mới xuống ngựa, bởi vì chỉ khi nào đi báo tin xấu hoặc đi báo tang mới phi ngựa kiểu như vậy. Người đi thăm khi cưỡi ngựa đến cửa trại thì phải xuống ngựa mà đi bộ, cấm kỵ cưỡi ngựa đi vào trại. Nếu không, người ta sẽ cho rằng đấy là một hình thức khinh miệt chủ nhà, và sẽ chọc giận người ấy.
Khi đến nhà của người Tháp Cát Khắc chơi thì cấm kỵ không được cưỡi ngựa xuyên qua bầy cừu, và cũng không được đến gần bầy cừu của chủ nhà hoặc dùng chân đá cừu, nếu không sẽ bị xem là đại bất kính, là hành vi ăn hiếp chủ nhà. Đối với tộc người Thái ở Đức Hoằng, khi người đi thăm muốn đi vào thôn trại thì phải bắn súng lên trời một tiếng để thông báo cho chủ nhà biết. Nếu chủ nhà trong thôn trại cũng bắn súng lên trời một tiếng biểu thị hoan nghênh, người đến chơi mới được vào thôn trại. Nếu tự ý xông vào thôn trại thì sẽ bị xem là phạm vào cấm kỵ. Người Hán và một số dân tộc khác có tập tục nuôi chó giữ nhà, khách đến chơi không được tự tiện đánh chó của chủ nhà, nếu không thì sẽ bị xem là “đánh chó đe người”.
Khi bước vào phòng của chủ nhà, trước tiên cần phải gõ cửa, sau khi được chủ nhà cho phép thì mới bước vào, thông thường là gõ nhẹ ba cái vào cửa. Nếu như cửa chính của chủ nhà đang mở thì cũng phải gọi một tiếng, khi người trong nhà lên tiếng thì mới bước vào. Tục ngữ có câu: “Không xông vào phòng vắng người, không bước vào cửa vắng người”.
Sau khi bước vào nhà, người khách cần chủ động chào hỏi chủ. Ở một vùng Trung Nguyên, sau khi khách vào nhà thì cấm không được nhìn đông ngó tây, lật cái này tìm cái nọ. Dân gian nói “là khách thì không nhìn kho đụn”, “là khách thì không nhìn bếp lò”. Người Ha Tát Khắc kỵ việc khách khứa khoe khoang con cái mình trước chủ nhà, và kỵ việc khách khứa đếm số gia súc ngay trước mặt mình. Nếu đến nhà của người tộc Mãn chơi thì kỵ ngồi trên giường lò phía tây, vì giường lò phía tây là nơi để cúng tế tổ tiên, nên không được tự tiện ngồi vào, mà phải ngồi vào vị trí đã được sắp xếp. Nếu có người cáo từ ra đi, thì những vị khách còn lại không được giành ngồi vào chỗ ấy. Nếu đến nhà của tộc người Ngoã chơi thì đầu tiên là cần phải biết rõ vị trí nào dành cho phụ nữ, nếu ngồi nhằm lên cái đôn gỗ dành cho phụ nữ thì sẽ phạm vào cấm kỵ, người chủ sẽ cho rằng đó là hành vi lăng nhục mình. Khi đến nhà của người Duy Ngô Nhĩ, người Ha Tát Khắc chơi thì cần phải ngồi quỳ xuống hoặc ngồi xếp bằng, kỵ để duỗi chân ra, lòng bàn chân hướng về người khác, kỵ nhất là cởi giày ra.
Trong bàn tiệc, khách cần phải tôn trọng chủ nhà, kỵ không được ăn uống trước người chủ. Tục ngữ có câu: “Chủ không động, thì khách không ăn”; khi người Hà Nhĩ Khắc Tư thết tiệc thì họ kỵ để khách từ chối không ăn hoặc chuyển cho người khách khác; người Di khi thết tiệc cũng kỵ không để khách từ chối không chịu nhận thức ăn. Cấm kỵ nhất là khách chê người chủ dơ bẩn, khách không được nói là “tôi không ăn đâu”. Ăn xong kỵ trả tiền, vì cho rằng như thế là không thân mật; người Hán và một vài tộc người khác cũng có tập tục như thế.
Trong việc tặng lễ vật, quà cáp cũng tồn tại một vài tập tục kiêng kỵ. Từ xưa, người Hán đã có phong tục tặng quà. Khi đến chơi, thăm viếng thì khách cần phải mang quà gặp mặt, gọi là chấp chí (nhận lễ). Khi bái lễ ra về thì kỵ không được mang quà cũ trả lại, chỉ khi từ chối không nhận quà tặng của đối phương mới làm như vậy. Theo lễ tục của khu vực người Bạch ở vùng đất Đại Lý, khi mang tặng lễ vật thì con số của lễ vật phải mang con số sáu (6). Nếu tặng lễ vật là tiền, thì một trăm sáu mươi mấy yuan (đơn vị tiền tệ của Trung Quốc - TDK) là sẽ một con số khiến chủ nhà rất vui, nếu tặng năm trăm yuan thì ngược lại, chủ nhà sẽ không nhận vì cho rằng đó là con số không tốt.
Trong cuộc sống thường nhật, người tộc Ngoã kỵ không dùng ớt, trứng gà làm vật tặng. Ngày xưa, trong cuộc giao chiến giữa những người Ngoã với nhau thì người ta thường dùng ớt để tỏ ý tuyên chiến; khi phục cừu thì đầu tiên sẽ dùng trứng gà làm tặng vật cho đối phương. Trong dân gian, người Đài Loan cũng kỵ gửi khăn làm quà tặng. Tục nói rằng, “tặng khăn, chặt gốc”, đó chính là do thời xưa, sau khi hoàn tất việc tang thì tang gia thường tặng khăn tay cho người điếu tang, dụng ý là để đoạn tuyệt qua lại giữa người điếu tang và người đã chết. Lại kiêng kỵ không tặng quạt cho người, vì quạt thì chỉ được dùng cho mùa hạ, sau đó thì không còn giá trị sử dụng nữa, thường bị vứt đi, vì vậy mà có cách nói “tặng quạt, không gặp nhau”, cũng sẽ gây ra sự hoài nghi về việc tuyệt giao quan hệ. Người ta còn kỵ không tặng dao kéo, dù che mưa, quả ngọt, bánh giày. Ý nghĩa của nó là, dao kéo sẽ mang ý “một dao cắt đứt 一刀兩斷”; chữ “tản” (cái ô) lại hài âm với chữ “tán” (ly biệt), sẽ gây cho đối phương hiểu nhầm. Quả ngọt, bánh chưng đều là những thực phẩm của tang gia, việc đem những thứ này để tặng cho người sẽ mang ý ám chỉ đối phương sắp có tang sự.
Đối với việc vay trả tiền và vật, dân gian kỵ không để người trung gian chuyển giao, mà tốt nhất là hai bên trực tiếp tính toán với nhau cho rõ ràng. Dân gian có cách nói “cách tay không đưa vật, cách cành không bắt chim”. Thông thường, nếu không có kết giao tình cảm gì, hoặc không có họ hàng gì thì không được lấy đồ của nhà người, ăn thức ăn của nhà người. Bởi vì, “ăn của người thì mồm mềm, lấy của người thì tay mềm”, sau này chính bản thân sẽ phải là người chịu thiệt. Mặc dù là anh em thân thích, người ta cũng phải chia tài sản cho rõ ràng. Thời xưa, trong dân gian còn có nói rằng “thà là cho người chết mượn chứ không cho người sống mượn”, ý nghĩa là thà cho người ta mượn nơi ở để làm tang chay, chứ không cho người ta mượn phòng để sinh con đẻ cái. Người Ngạc Ôn Khắc kỵ không mượn đồ dùng của người khác trong ngày giỗ cho người chết, nếu không sẽ khiến cho người ta oán giận, bất mãn. Rất nhiều dân tộc khác như tộc Hán, khi làm tang ma hiếu hỷ phải mượn đến đồ đạc của nhà người, thì sau khi dùng xong và đem trả thì phải dùng tiền để dán đè lên vật ấy để cầu lấy điềm cát tường, tránh xa hung tai.