Có nhiều cách để thay thế chữ. Một trong những cách đó là dùng cách nói ẩn dụ, ví dụ như trong tiếng Hán hiện đại, người ta dùng chữ “mang màu” để chỉ người lính bị thương trong trận chiến, còn người miền Nam thì gọi là “đeo hoa”. Một loại khác là dùng điển cố, ví dụ như tiếng Hán thời xưa gọi hiện tượng bị bệnh sắp chết là “di lưu”, tức là dùng điển cố Chu Thành vương trong “Thượng thư, Cố mệnh”, hoặc gọi là “dị quý”, tức là dùng điển cố Tăng tử đổi chiếu khi sắp lâm chung trong “Lễ ký, Đàn cung”.
Một kiểu khác nữa là dùng từ giả thác (từ vay mượn), ví dụ như trong tiếng Hán hiện đại, người ta gọi cái chết của hoàng đế là “yến giá”, với ý nghĩa là ông ấy không thiết triều nữa, ấy là do xe giá đến muộn; gọi cái chết của quan lại được phong ấp là “quyên quán xá”, ý là ông ấy đã không còn nữa, là vì lẽ ông ta đã vứt cái quán của ông đi chỗ khác rồi. Còn cái chết của tăng ni Phật giáo thì gọi là “viên tịch”, có nghĩa là người ấy đã hoàn toàn chìm vào trong giây phút niệm kinh. Cái chết của nhân sĩ đại phu thì gọi là “khí đường trướng”, có nghĩa là ông ấy đã vứt bỏ sự nghiệp, chức vụ của mình, đi nơi khác kiếm ăn rồi. “Tây quy” (về tây) là từ để nói về cái chết một cách thông thường nhất. Mặt trời lặn ở núi tây, chim đã quay về tổ. Chữ “tây” mang nghĩa phái sinh từ chữ “yên nghỉ”, mà hướng tây là nơi mặt trời lặn, thì tự nhiên, nó cũng chính là miền đất âm u, là nơi đi vào cõi âm vậy. Mộ táng thời xưa của người Trung Quốc cũng có nhiều chiếc quay đầu về hướng tây.
Một loại dùng từ thay thế khác là dùng tên của vật tương tự. Ví dụ như, người Trường Sa kỵ nói đến chữ “hổ”, bởi vì chữ “phủ” (cái phủ), “phủ” (mục nát) lại đồng âm với chữ “hổ”, vì thế mà người vùng Trường Sa đổi “đường Phủ Chính” thành “đường Miêu Chính”, “phủ nhũ” (đậu nhự) thành “miêu nhũ” (sữa mèo). Loại phổ biến nhất là đổi sang dùng chữ phản nghĩa. Ví dụ như “Thái Bình môn” trong nhà hát kịch có nghĩa gốc là tránh mọi điều không may, để mọi người bước vào cánh cửa của sự sống, nói thái bình chính là nghĩa trái ngược của chữ tai nạn, sự cố. Người khách trên thuyền kỵ nói đến “vãng” (đến), “phiên” (lật), vì vậy mà gọi “cây trâm” thành “chiếc đũa”, “vải buồm” là “giẻ lau”. Họ kỵ nói đến “lê” (quả lê), “tán” (cái dù che mưa), mà gọi là “quả tròn”, “nón lá thẳng”, vì nhằm để tránh ý nghĩa “ly tán”. Người ta cũng kỵ nói “khổ qua” mà gọi là “dưa mát”, vì để tránh chữ khổ khởi đầu cho sự gian nan, tương tự, người ta kỵ nói “uống thuốc”, mà gọi là “uống trà ngon” để tránh nghĩa bệnh tật. Hiện tượng tránh hung cầu cát thể hiện trong lời nói này, trong dân gian gọi đấy là lấy lời may.
Ngoài ra, người ta còn kỵ nói đến những từ ngữ hàm ý cùa phá sản. Trong tất cả những tiếng xấu, ngoài những từ nói về chết chóc và bệnh tật là khiến cho người ta sợ hãi, phải kỵ húy, thì người ta còn kỵ húy cả những từ ngữ nói về sự phá gia bại sản. Vì sự hung cát của tài vận đều liên quan trực tiếp đến vận mệnh của con người, sự giàu nghèo trong cuộc sống, vì vậy mà dân gian rất xem trọng và luôn nghĩ đến sự phát tài ở mọi lúc mọi nơi, và cũng cẩn thận đề phòng phá sản ở mọi lúc mọi nơi.
Trong khoảng thời gian mùa xuân, người người nhà nhà đều phải cúng tế thần tài. Nếu gặp đúng một đứa bé nào đứng dựa cửa bán tranh thần tài mà rao rằng: “Rước thần tài đến” thì mọi người sẽ vội vàng kéo ra, đến cửa mà trả lời: “Tốt quá, tốt quá, nào, nhà chúng tôi thỉnh một bức”. Nếu như không muốn mua thì cũng không được nói “không cần”, càng không được đuổi đi, mà chỉ cần nói là “đã có rồi”. Mùa xuân là đầu của một năm, do vậy dân gian cho rằng, nếu đắc tội với thần tài thì suốt cả năm đó sẽ không có thần tiên nào đến cửa. Trong thời gian đó, nếu trẻ com có những lời mạo phạm đến thần tài thì mọi người sẽ nói là “lời trẻ không kỵ” để giải trừ những điều xấu. Người Trung Quốc khi gặp gỡ và chào nhau thường chắp tay mà nói: “Cung chúc phát tài, cung chúc phát tài”. Vì sự tốt xấu của tài vận có liên quan mật thiết trực tiếp đến lợi ích của con người, vì vậy mà dân gian rất xem trọng việc này.
Trong thời gian bình thường cũng không được nói ra những lời mang tính uế tạp. Quan niệm về vinh nhục trong dân gian cũng đủ để hình thành một vài cấm kỵ liên quan đến ngôn ngữ tục mang ý tục tĩu, thông thường thì người ta cho rằng, những từ ngữ dính dáng đến hành vi tính giao và cơ quan sinh thực khí chính là một kiểu từ ngữ uế trọc, dơ bẩn, vì thế nên những người được xem là có giáo dục hay người đứng đắn đều rất e dè, không dám hé răng.
“Trứng” (蛋đản) là một từ ngữ thường thấy trong việc chửi mắng, vì vậy, chữ “trứng” này đã trở thành từ ngữ mà mọi người ai cũng tránh né. Trong “Bắc Bình phong tục loại trưng” (北平風俗類征), Lý Gia Đoan đã đàm đạo: “Những từ ngữ mà người Bắc Kinh dùng để chửi mắng, thì chắc chắn sẽ dùng chữ “trứng” (北人罵人之辭,輒有蛋字). Những chữ gọi là “hỗn đản” (混蛋 đồ cà chớn), “đảo đản” (倒蛋 khốn kiếp), vương bát đản” (王八蛋 đồ khốn nạn)… đều là chữ “trứng” trong các món ăn, tất sẽ phải tránh dùng. Trứng gà còn gọi là “con của gà” (雞子兒), trứng ốp la gọi là “tùng hoa” (松花), trứng chiên gọi là “món trải vàng” (攤黃菜), trứng đập gọi là “món vàng trôi” (流黃菜), trứng luộc gọi là “trái lăn” (沃果兒), canh trứng gọi là “canh mộc tê” (木樨湯). Mộc tê tức là cây quế hoa, vì trứng khi nấu chín có sắc như hoa quế, vì vậy mà dùng tên mộc tê để gọi thay.
Trong dân gian, người Hán thường cho rằng những từ ngữ quan hệ đến hành vi tính giao và cơ quan sinh thực khí là một loại từ ngữ uế trọc, nếu nói ra bất nhã. Vì vậy, khi không thể không nói đến cơ quan sinh dục, thì người ta dùng những từ “hạ bộ” (下部), “âm bộ” (下部) để thay thế. Do có quan niệm cho rằng cơ quan sinh dục của phụ nữ là không sạch sẽ, cộng vào đó là quan niệm nam tôn nữ ty, người ta cũng phải kiêng kỵ dùng những từ về sinh thực khí nữ trong lời nói, có khi còn mang sắc thái chê khen, trọng khinh khác nhau. Ví dụ như trong “Tạp khí vườn đậu” (菽園雜記), Lục Dung đã nói: “Kiêng nói đến chữ bừa bãi (lang tịch), vì vậy mà gọi cái búa (lang đầu) là hưng ca” (忌狼藉,故稱榔頭為興哥). Lang đầu là cách nói của người xưa để chỉ cơ quan sinh dục của đàn ông, ở đây lại thay bằng “Hưng ca” (anh chàng nổi cộm), rõ ràng nó đã mang một tình cảm yêu thương trìu mến, đã vừa thể hiện tư tưởng xem trọng người nam, lại vừa thể hiện quan niệm của một bộ phận nam giới cho rằng cơ quan sinh dục nam hoàn toàn không có gì là không sạch sẽ.
Khi nói đến hành vi tính dục thì càng có những kiêng kỵ tránh nói đến nó một cách trực tiếp. Tính dục trong thâm tâm của người xưa đã trở thành một điều tà vẹo và đáng phải xấu hổ, trở thành một chuyện chỉ có thể thập thò lét lút mà thôi. Mặc dù là quan hệ vợ chồng chính đáng, bình thường, nhưng cũng phải dùng những từ ngữ mang tính chất văn nhã để thay thế nó, ví dụ như “làm việc” (辦事), “chuyện phòng the” (房事), “cùng giường” (同床), “cuộc sống vợ chồng” (夫妻生活). Còn quan hệ tính giao bất chính thì càng có nhiều từ ngữ bị kiêng kỵ, thường dùng là “cái tội phong lưu” (風流罪), “cái nợ phong lưu” (風流債), “có lòng hướng ngoại” (有外心), “có cuộc gặp gỡ bên ngoài” (有外遇), “tơ tưởng tình xuân” (懷春), “thua cuộc bằng tấm thân” (輸身), “đi trên đường hoang dã” (走野路), “hái hoa” (采花)… Trong các tác phẩm văn học cổ điển Trung Quốc, thì từ “mây mưa” thường được dùng để gọi sự giao hợp của nam và nữ. Trong “Văn tuyển, Tống Ngọc (Cao Đường phú) tự” có thuật lại chuyến đi chơi đến đài Vân Mộng giữa Sở Tương Vương và Tống Ngọc, khi gặp khí mây thì Sở Tương Vương hỏi Tống Ngọc rằng: “Đây là khí gì?” Tống Ngọc trả lời rằng: “Đây gọi là mây sớm”. Sở Tương Vương lại hỏi: “Tại sao gọi là mây sớm?” Tống Ngọc đáp lời: “Sở Hoài Vương từng đi chơi đến Cao Đường, trong giấc mộng đã cùng thần nữ Vu Sơn tương hội, khi thần nữ sắp dời chân đi thì bảo rằng mình ‘sớm làm mây, chiều làm mưa’. Sớm sớm chiều chiều dưới chốn Dương Đài”.
Từ thời xưa, những cấm kỵ về từ ngữ chỉ sự bài tiết đã xuất hiện, trong văn ngôn, người ta gọi là “xuất cung” (出恭), “rửa tay” (淨手), “giải phóng bàn tay” (解手) v.v. Tương truyền rằng, sau khi Lưu An đời Hán chết đi, được bay về trời, do “tọa khởi bất cung” (ngồi xuống mà không kính), khiến tiên bá chủ giả đã tấu trình lên cho thiên đế rằng Lưu An bất kính, vì vậy mà Lưu An bị biếm trích ba năm, vì vậy mà mới xuất hiện từ “xuất cung”. Theo sự giải thích của “Từ nguyên” thì, vào đời Minh, trong chế độ khoa cử, người ta có làm thẻ xuất cung nhập kính (ra cung vào kính). Nếu như sĩ tử ai muốn đi đại tiện thì đầu tiên sẽ nhận lấy tấm thẻ này, sau nhân đó mà gọi việc đại tiện là xuất cung, đồng thời gọi đại tiện là đại cung, tiểu tiện là tiểu cung. Bắt đầu từ thời Nguyên, trong trường thi của chế độ khoa cử, người ta cũng làm thẻ “xuất cung” (ra cung), “nhập kính” (vào kính), nhằm tránh tình trạng để thí sinh tự ý rời ghế ngồi của mình. Ban đầu, từ “xuất cung” là dùng cho nam giới, sau đó thì dùng cho cả nam và nữ. Đoạn thứ ba trong “Vườn Hồi Xuân” (懷春園), Quan Hán Khanh có nói: “Trà của tôi đón khách Tam đảo, canh thì dâng cho khách Ngũ hồ, uống đến bảy tám chén thì tự ý đi xuất cung” (俺這裡茶迎三島客,湯送五湖賓,喝上七八盞,管情去出恭). Và bởi vì, sau khi đại tiểu tiện thì cần phải rửa tay, vì thế mà lại gọi việc đại tiểu tiện bằng hai chữ “rửa tay”. Trong “Kim Nguyên tán khúc, Hồng Tú Hài” (金元散曲‧紅繡鞋) có nói: “Chuyện này làm sao làm cho xong, tôi sợ đến nỗi phải rửa tay trong chậu” (這場事怎干休,唬得我摸盆兒推淨手). “Đi rửa tay”, “đi giải phóng” trở thành cách nói uyển chuyển để chỉ việc đại tiểu tiện. “Đi rửa tay” là cách nói khá phổ biến của người hiện đại, kỳ thực, từ đời nhà Tống, Nguyên thì cách nói này đã xuất hiện rồi. Ví dụ như, trong “Kinh bản thông tục tiểu thuyết, Thố tạm Thôi Ninh” (京本通俗小說‧錯暫崔寧) cũng có viết: “Sau một lúc hàn huyên, Ngụy Sinh bèn đứng dậy đi giải phóng bàn tay” (餘了些寒溫,魏生起身曲去潔解手).
Ngoài ra, trên một vài phương diện khác còn có những cấm kỵ về từ ngữ mang tính khêu gợi sự xấu hổ, nhục nhã. Ví dụ như, thường thì người ta kỵ để người khác nói đến mình và loài súc vật cùng một lúc, đối với người khiếm khuyết sinh lý thì họ cũng kỵ người khác trêu chọc trước mặt mình. Ví dụ như các loại súc vật thỏ, chó, lừa, trâu là từ thường dùng để mắng chửi người, vì vậy mà người ta thường kiêng kỵ không nói đến những con vật này trước mặt người khác, nếu không sẽ làm tổn thương người ta, gây ra những xích mích với nhau. Trong “Hậu Hán thư, Mã Viện truyện” có câu danh ngôn: “Nghe thấy điều lỗi lầm của người thì cũng như nghe thấy tên của cha mẹ, tai thì có thể nghe vậy, còn miệng thì không nói được vậy”. Những điều kiêng tránh đối với những khuyết điểm đối cới con người này được lưu hành suốt từ xưa cho đến nay. Trong một xã hội chuộng sĩ diện như Trung Quốc, thì người có khiếm khuyết nào đấy trên thân thể sẽ luôn có một tâm lý kiêng dè rất mạnh mẽ đối với những khiếm khuyết trên thân thể của mình. Trong việc diễn đạt những khiếm khuyết sinh lý, người ta đều có gắng đến mức tối đa là dùng những từ ngữ uyển chuyển. Ví dụ như “lỗ tai điếc” thì đổi thành “nghe quen tai”, hoặc “lỗ tai có chút không tốt”, “lỗ tai bị bất tiện một tý”, còn người xưa thì sẽ nói là “nặng tai”.
Có một vài từ ngữ cấm kỵ khó mà lý giải được ý nghĩa trên tầng bề mặt của nó, nhưng người đời sau thì luôn tìm một cách giải thích bằng một câu chuyện ngẫu nhiên nào đó hay một truyền thuyết nào đó. Thời xưa, người Sơn Đông khi kết giao bạn bè, họ không thích để người khác gọi mình là “đại ca”, nếu như anh gọi là “đại ca” thì người ấy tất sẽ không vui. Đó là do sự lưu truyền rộng rãi của câu chuyện “Thủy Hử” trong vùng Sơn Đông, chuyện kể về hai anh em nhà họ Võ, người anh tên là Võ Đại Lang, không những anh ta bị Tây Môn Khánh cướp con yêu phụ Phan Kim Liên của mình đi, mà còn bị tên gian phu ấy hạ độc mà chết; người em thứ hai tên là Võ Tòng thì vốn là anh hùng đánh hổ núi Cảnh Dương, sau lại giết Tây Môn Khánh ở lầu Sư Tử để trả thù cho anh mình. Chúng ta ai cũng biết rằng hai anh em nhà họ Võ sống ở Sơn Đông, vì vậy mà người Sơn Đông thường kỵ không gọi là “đại ca”, bởi vì “đại ca” Võ Đại Lang này là một người mặt mày xấu xí, yếu đuối bất lực, cuối cùng lại bị gian phu hạ độc chết. Trong khi đó thì “nhị ca” Võ Tòng là người nghĩa hiệp, võ nghệ cao cường, nên ai ai cũng đều yêu mến kiểu “nhị ca” này. Vì vậy, nếu bạn gọi người khác là “nhị ca” thì được xem như là một cách gọi tôn trọng anh ta, giống như xem anh ta là một anh hùng đánh hổ, anh ta tự nhiên sẽ rất vui mừng.
Sự cấm kỵ trên phương diện ngôn từ cũng liên quan nhiều đến phong tục tập quán, là một bộ phận trong văn hóa dân tục. Ở các khu vực khác nhau, trong các nghề nghiệp khác nhau thì cũng có sự khác biệt trong cấm kỵ ngôn từ. Nếu không hiểu được những hiện tượng này thì không những tạo ra những trở ngại trong quan hệ giao tế, mà thậm chí còn có thể làm tổn hại đến đối phương, ảnh hưởng đến sự đoàn kết.