Bắt đầu từ thời nhà Chu, nhân dân đã có tập tục kỵ húy những từ xưng hô. Đương thời, sau khi chết đi thì người ta bắt đầu kiêng kỵ cái tên của anh ta. Nếu như khi cần gọi đến tên của người đã chết ấy thì cũng phải kiêng, chỉ gọi chữ húy. Tập tục không được xưng hô tên vốn có của người đã chết này được bắt đầu từ một kiểu nhận thức rằng, khi một người nào đó chia lìa hai ngả âm dương, được kiêng kỵ trong việc xưng hô, một khi đã được kỵ húy tên thật của mình thì quỷ thần sẽ không biết tên thật của người ấy là như thế nào, do vậy mà không thể làm hại cho rất nhiều sự vật trên dương thế vốn có quan hệ với cái tên thật của anh ta. Đến đời Tần, chế độ kỵ húy đã dần dần đi đến sự hoàn bị. Trong “Sử ký, Tần Thủy Hoàng kỷ” có ghi chép những điều cần kỵ huý trong tập tục đời Tần. Hơn nữa, không chỉ kỵ húy tên của người sau khi chết, mà ngay trong lúc sinh thời cũng đã có kỵ húy danh xưng rồi. Điều này có lẽ liên quan đến sự nở rộ của phong tục dùng tên để làm vu thuật, hoặc là vu thuật đen tối tiến hành trên cái tên nào đó được viết trong sách, đưa người ấy đi về miền đất chết. Vào lúc ban đầu, việc kỵ húy được lưu hành trong xã hội tầng lớp trên, giữa những nhân sĩ có quyền uy với nhau, nhưng sau lại lưu truyền vào trong dân gian, ảnh hưởng đến từng hộ gia đình, và nó đã trở thành một loại hình tập tục trong dân gian.
Người Trung Quốc có tập tục tôn kính tổ tông, do vậy, tên của tổ tiên và tên của người lớn đều bị kỵ huý, không được phép gọi thẳng ra. Trong tín ngưỡng sùng bái tổ tiên của rất nhiều tộc người như tộc Hán, tộc Ngạc Luân Khắc, tộc Ngạc Luân Xuân, tộc Ha Tát Khắc, tộc Bố Y, tộc Tạng v.v. đều có một hạng mục về kiểu cấm kỵ này. Người Ngạc Luân Xuân cho rằng, nếu trực tiếp gọi tên tổ tiên thì đó là thái độ không tôn kính, có thể sẽ chọc giận tổ tiên và sẽ bị giáng tai nạn xuống đầu con cháu. Đối với người bề trên, người bề dưới cũng không dám gọi thẳng tên ra, thậm chí cũng không dám nói cho người khác biết tên của người bề trên, nếu không, người ta cho rằng trong nhà sẽ có người sinh ra con cái không có đốt xương. Nếu như có sự vật nào đó tương đồng với tên của người bề trên thì phải đổi tên của sự vật đó, tức là phải nói tránh đi, nếu không, sẽ bị đoản thọ, chết yểu. Người Hán thì bất luận là nói hay viết, cũng đều kỵ nói đến tên của tổ tiên, tên của người bề trên. Trong “Sử ký” của Tư Mã Thiên, vì tên của cha ông là Đàm, vì thế mà phải đổi chữ “Triệu Đàm” thành “Triệu Đồng”, đổi “Lý Đàm” thành “Lý Đồng”; thời Lục triều, vì người ta kỵ húy chữ “đồng”, nên cây ngô đồng bị đổi tên thành cây bạch thiết. Đời nhà Thanh, vì cha của Lưu Ôn Tẩu tên là Nhạc, nên ông suốt đời không nghe nhạc. Từ đó có thể thấy rằng, việc kỵ húy tên trong nhà ở các thời đại là rất nghiêm ngặt. Cho đến thời hiện nay, con cái cũng kỵ húy không được trực tiếp gọi tên của người lớn, càng không được gọi tên tục của họ, ngay đến những từ ngữ đồng âm hoặc cùng nghĩa với tên của bậc trưởng bối cũng bị kỵ huý. Điều kỵ húy đặc biệt là tên của người dưới tuyệt đối không được giống, hoặc gần âm, đồng âm với tên của người bề trên. Nếu không, thì sẽ bị xem là bất kính đối với bậc tiền bối, là một hành vi khi tổ (xem thường tổ tiên). Khi người bề dưới xưng hô với người bề trên thì cần phải dùng danh xưng phân ngôi thứ để thay cho cách gọi bằng tên, ví dụ như gọi là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha, mẹ v.v. Không chỉ là chỉ xuất hiện giữa người bề trên và kẻ bề dưới trong cùng một gia tộc, mà trong quan hệ giữa thầy trò cũng như thế. Tục ngữ có câu “Con không kêu tên cha, trò không gọi húy thầy”.
Không những kẻ bề dưới kỵ không gọi tên của bề trên, mà ngay trong người cùng vai vế với nhau, thì khi xưng hô cũng có những kỵ huý. Trong quan hệ giao tế, người ta luôn luôn tôn kính đối phương, nên cũng không tiện gọi tên của người ấy. Khi cần hỏi tên của đối phương, thì cũng phải nói một cách rất khách sáo rằng “dám hỏi tôn húy là chi”, “tên húy của các hạ là gì”… Đối với người Ngạc Luân Xuân, giữa vợ chồng cũng không thể kêu tên của nhau. Đối với người Băng Long, phàm là sau khi sinh con thì người khác không được trực tiếp gọi tên của người đó nữa, mà phải gọi theo tên của đứa con, ví dụ như “cha của thằng gì gì đó”, “mẹ của con gì gì đó”. Người Hán cũng có tập tục tương tự. Thậm chí là đã kết hôn, đã sống chung một nhà, thì cũng phải đổi cách xưng hô. Người vợ gọi chồng là “ông xã”, “chủ nhà”, còn người chồng gọi vợ là “người trong nhà”, “người nấu cơm”. Hoặc giả, khi cần gọi nhau thì chỉ dùng “nè”, “ê” để xưng hô với nhau, và thường là rất ít khi gọi tên của người ấy. Đối với người ngoài, khi xưng hô cũng chỉ gọi là “vợ anh gì gì đó”, “chồng chị gì gì đó”, như thế thì sẽ không phạm vào kỵ huý.
Khi đặt tên cho con, thì có rất nhiều kỵ húy. Ngoài việc tránh lấy tên đồng âm hay đồng tự với tên của tổ tiên, của bậc trưởng bối, thì cần phải nghĩ đến sự xung khắc với tướng mệnh, ví dụ như mạng thiếu kim, thì kỵ lấy những chữ có bộ hỏa hoặc có chữ hỏa làm bộ thủ để đặt tên. Tóm lại, không được lấy những chữ tương khắc với bát tự (tức giờ, ngày, tháng, năm sinh - TDK) trong tướng mệnh để đặt. Ngoài ra, trẻ con cũng có tên riêng. Tục cho rằng, gọi tên riêng của người, tức là không tôn trọng người đó, hoặc giả sẽ khiến cho quỷ thần bắt đi, vì vậy mà phải tránh. Người lớn cũng kỵ húy biệt hiệu, trác hiệu mà người khác đặt cho mình, tục ngữ nói rằng: “đi đường thì sợ tà đạo, với người thì sợ trác hiệu”. Trong “Lễ ký, Nội tắc” có nói rằng: “Phàm là những tên gọi thì không được lấy tên của mặt trăng, mặt trời, không lấy tên của quốc gia. Không được lấy tên của ẩn tật, của đại phu sĩ, không dám cùng tên với thế tử”. Trong đó, cách đặt tên gọi phải kỵ tên của mặt trời mặt trăng, kỵ cùng tên của quốc gia, có ý nghĩa là kỵ húy thần thánh, e rằng sẽ mạo phạm đến. Kỵ đặt tên có hàm nghĩa là bệnh tật hoặc nốt ruồi trên cơ thể, nếu không thì sẽ khó mà trị khỏi tật bệnh. Không dám đặt cùng tên với thế tử cũng là cách nghĩ theo quan niệm của tông pháp, biểu thị sự tôn trọng đối với thế tử. Nhưng nếu tên trùng với tên của thế tử mà được đặt trước khi thế tử được sinh ra thì không cần phải đổi tên.
Trong xã hội cũ, hoàng đế và những quan thần có quyền thế còn cưỡng chế hình thành chế độ pháp luật buộc phải kỵ húy tên của mình. Ví dụ như, quan tri châu nọ tên là Điền Đăng, nên kỵ huý chữ “đăng” (đèn), và cả chữ “phóng đăng” (thả đèn) cũng đổi thành “phóng hỏa” (đốt lửa). Vì thế, nó trở thành điển cố về câu thành ngữ “chỉ cho phép quan châu phóng hỏa, chứ không cho bá tánh đốt đèn”. Tần Thủy Hoàng họ Doanh tên Chính, nhằm để kỵ húy chữ “chính”, người ta đổi chữ “chính nguyệt” (tháng giêng) thành chữ “đoan nguyệt”, hoặc đổi cách phát âm của chữ chính (zhèng) thành âm bình (zhēng). Những cấm kỵ kiểu như thế này thì rất nhiều, mà đời Đường - Tống là thời gian mà chế độ kỵ húy đã cực kỳ thịnh hành. Trong pháp điển của đời Nguyên, “hồi tỵ tự dạng” (những chữ cần tránh) nhiều đến một trăm sáu mươi chữ, thêm vào đó là cách kiêng nghĩa chữ, kiêng âm: “kỵ bộ thủ đi cùng với âm” lại càng nhiều vô số kể. Có thể nói, sự nghiêm ngặt trong kỵ húy vào đời Minh - Thanh là đã leo đến đỉnh cao. Việc phạm đến kỵ húy đã trở thành một bộ phận quan trọng trong vụ văn tự ngục, cách tránh kỵ húy là đổi chữ, tránh âm, chữ rỗng, thiếu nét v.v. Vào thời kỳ đầu, kỵ huý chỉ là một vài luật lệ quy định, nhưng từ đời Hán về sau, theo sự tích tụ của năm tháng, thì những “phép húy”, “luật húy” này cũng đã dần dần được đột phá và bùng phát.