Phương thức tang táng chủ yếu của người Hán là thổ táng. Dân gian tin rằng “nhập thổ vi an” (vào đất là an toàn). Trong lịch sử, tộc người Hán đã từng có tập tục phản đối hỏa táng, cấm hỏa táng. Tống Thái Tông Triệu Khuông Dẫn đã từng có chiếu thư “cấm dân dùng kiểu hỏa táng”. Ba triều Nguyên, Minh, Thanh đều có pháp lệnh cấm không cho nhân dân sử dụng cách thức hỏa táng. Nhưng, hình thức hỏa táng đã xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc, trong “Tiết táng, Mặc Tử” đã từng có ghi chép: “Phía Tây nước Tần có nước Lương, ở đó, khi thân thích mất đi thì sẽ dùng củi nhóm lại mà thiêu”.
Phương thức tang táng chủ yếu của người tộc Tạng là thiên táng, nhưng đối với những vị Phật sống và những Lạt Ma có địa vị, những người cầm đầu thì thường được hỏa táng. Ở một vài nơi, người ta không phân tôn ty, không phân nam nữ mà đều cho hỏa táng. Phương pháp này là bôi một ít bơ lên thi thể để làm mồi lửa, lấy tro xương và bùn cất ở một nơi cố định để gìn giữ cúng dường. Nếu ruộng đồng đang vào thời kỳ sinh trưởng hay vào những ngày thu hoạch, thì cấm kỵ không cho hỏa táng. Người ta cho rằng, nếu hỏa táng vào lúc này thì đồng ruộng sẽ mất mùa, người và thú đều gặp phải tai ương. Những tộc người thực hành hỏa táng cho rằng, hỏa táng có thể khiến cho linh hồn người chết bay lên trời, vì thế, nếu người chết là ăn mày, kẻ khùng điên, hay là người mắc ác bệnh đều không được dùng phương thức hỏa táng, mà phải thả thi thể xuống sông, dùng phương thức thủy táng này để cho linh hồn của người đó mãi mãi không trở về được nữa. Đối với những thi thể của người bị hình phạt mà chết, bị chết dữ cũng phải kéo đến vứt vào trong hố đã đào, dùng phương thức này để khiến cho linh hồn của người đó bị rơi xuống mãi mà không thể nào chuyển sinh đi được. Tộc Sơn Di ở Tiểu Kinh cũng thế, phương thức tang táng chủ yếu của họ là hỏa táng. Nhưng đối với những kẻ bị phong ghẻ, bệnh hủi hay những trẻ chưa đầy ba tháng tuổi mà chết thì bị cấm kỵ không cho hỏa táng, mà phải thổ táng. Khi hỏa táng, chàng rể phải tham gia, con ruột không được phép tham gia. Khi thiêu, cần phải để thi thể nằm nghiêng, nếu người chết là nữ thì mặt day về hướng bắc, nếu người chết là nam thì mặt day về hướng đông. Thiêu xác phải thiêu một lần cho thành tro, kiêng kỵ việc thiêu nửa chừng rồi thêm củi vào, tục cho rằng như thế là điềm bất tường, có dự báo là trong nhà sẽ có người phải chết nữa.
Ở tộc Hán, trong dân gian còn dùng cách “không được vào mộ tổ” để phân biệt và trừng phạt những người làm nghề hạ tiện hay những người chết bất thường. Những người làm nghề xướng ca, kỹ nữ và người bạo bệnh khi chết đi đều không được chôn cất vào phần đất mộ của tổ tiên. Trong dân gian, người ta lấy tiêu chuẩn được vào phần đất mộ tổ là một trong những điều kiện để làm người. Những người không có quan hệ máu mủ ruột thịt trong dòng họ thì tất nhiên không được phép vào phần đất của mộ tổ, những người bị bệnh lâu ngày khó chữa, những người chết yểu trước khi kết hôn, những người phụ nữ chết trước chồng… đều không được vào phần đất ấy. Theo phong tục của người Hồi, những người nghiện thuốc, nghiện rượu, đánh bạc, thọ hình, chết dữ hay người vi phạm giáo quy sau khi chết đi sẽ không chôn nơi phần đất dành cho mộ chung, mà phải chôn họ ở bên ngoài của khu mộ chung đó, nhằm để phân biệt với những người bình thường. Tộc Ngạc Ôn Khắc, tộc Đạt Oát Nhĩ, những người bị gấu cắn chết, bị súng bắn chết, bị sét đánh chết, những thai phụ sinh khó mà chết, những saman (pháp sư) sau khi chết đi thì không được nhập táng chính thức, không được táng vào vùng đất táng dành chung cho gia tộc.
Ở một vùng Đông Bắc, người Hách Thiết, Ngạc Ôn Khắc đều cấm kỵ không mai táng trẻ em chết yểu. Người Hách Triết thường dùng vỏ cây của cây hoa quấn chặt thi thể chúng và treo lên trên cây. Còn người Ngạc Ôn Khắc thì thường dùng một túi vải trắng để bỏ thi thể vào, vứt vào nơi có ánh mặt trời trên dốc núi, nơi mà cỏ mọc xanh um. Tục cho rằng, linh hồn của trẻ em thì nhỏ, nếu như táng dưới đất thì e rằng chúng không ra được, sau này sẽ không có con được nữa.
Thời xưa, những người chết ở bên ngoài quê hương của mình thì cấm không được đem về quê an táng, mà thường là cho an táng tại nơi đó. Nếu như có thể mang thi thể về được thì cũng không được vào cửa nhà, chỉ có thể bỏ ở ngoài thôn và chôn trực tiếp ở đấy, vì e rằng những người chết ở đất người sẽ mang tai họa đến cho những người trong nhà. Tục ngữ có câu: “ma hoang không thể gặp thần nhà”, người ta e rằng sẽ có chuyện xấu là người chết ấy sẽ xung phạm đến linh hồn của tổ tiên.
Thông thường, thiên táng là một hình thức được lưu hành ở những tộc người mang tín ngưỡng Phật giáo và ở trong khu vực. Như tộc Tạng khi cho điểu táng (để chim rỉa ăn thịt người chết) thì phải mang thi thể đến nơi thiên táng. Dùng dao mổ thi thể ra, cắt nhỏ thịt để làm mồi cho những thần ưng sống tập họp thành đàn bay đến ăn. Thi thể được chim ăn càng sạch sẽ thì được xem là càng tốt. Nếu chim ăn không hết, hoặc không có chim ưng đến ăn, thì người ta cho đó là một điềm rất xấu, cho rằng người chết trước khi đã phải tội, linh hồn không thể bay về trời được. Phương thức hoang táng của người Mông Cổ cũng vậy, người sau khi chết đi thì được kéo lên xe gỗ và được người ta kéo xe chạy đi, đến khi nào thi thể rơi xuống mới thôi. Thi thể được bỏ nơi hoang dã ấy, nếu như có nhim ưng, chó sói đến ăn, thì người ta cho rằng linh hồn của người chết đã được siêu thăng lên trời. Nếu như sau bảy ngày, thi thể người chết vẫn còn đó thì bị xem là điềm bất tường, phải mời thầy Lạt Ma đến niệm kinh, xin cho người chết được thoát khỏi tai họa.
Các phương thức tang táng đều có những quy định thành tục lệ nhất định đối với giây phút chuyển cữu. Thời xưa, tộc người Hán đã có lễ pháp “tam nhật nhi liễm” (ba ngày sau khi chết mới khâm liệm). Sau khi khâm liệm, người ta phải chọn ngày tốt mới có thể cho táng. Mà những cấm kỵ vào ngày giờ táng lại càng nhiều. Theo quan niệm mê tín, thì những người chết vào tháng lẻ sẽ được táng vào tháng chẵn, những người chết vào tháng chẵn thì táng vào tháng lẻ. Tháng chẵn và tháng lẻ phải phối hợp với nhau mới được, nếu không thì sẽ không tốt. Nếu như không kịp táng thì cũng có thể chuyển cữu đi trước. Ở vùng Thấm Dương Hà Nam, người ta còn có tục kỵ tháng khi táng, đồng thời còn xem xét với quan hệ với họ của người ấy. Từ Đài Loan đến một vài nơi ở phương Nam, người ta kiêng không táng vào tháng bảy. Vì theo truyền thuyết dân gian, tháng bảy là tháng của ma quỷ, những linh hồn chốn âm gian này sẽ đến dương thế để xin ăn. Nhằm tránh quỷ sát, người ta kiêng không cho chôn cất vào tháng này.
Thời xưa, dân gian vùng Chiết Giang vẫn còn phổ biến tục cấm kỵ việc trùng táng. Trùng táng chính là can chi vào giờ chết của người chết trùng với tên của can chi ngày tháng năm sinh của người ấy. Tục gọi đó là “ngày không sạch”. Nếu gặp phải những trường hợp như thế, thì cần phải tiến hành lễ táng đặc biệt, luôn luôn đóng nắp quan tài vào lúc canh ba, canh năm, rồi khiêng ra vùng ngoại ô. Tang gia không mặc đồ gai, không được khóc, phải đợi đến bảy ngày sau mới kêu khóc, bố cáo đến bạn bè thân thích, sau đó mới tiến hành nghi thức tang táng lại.
Trong dân gian còn có cái gọi là tam táng nhật, tức là nếu tiến hành táng ngay trong ngày đó thì người ta tin rằng sẽ còn hai người nữa sẽ phải chết, gây ra thảm kịch ba mạng người. Lại còn có cái gọi là xung khắc nhật, tức ngày giờ chuyển cữu kỵ không được giống với ngày tháng năm sinh của người chết và người con chủ tang. Tục cho rằng như thế sẽ không tốt. Ở tộc người A Xương, khi chôn cất người chết thì phải tìm ngày thìn (rồng), dần (hổ), thân (khỉ), tục cho rằng, nếu không thì lúa cấy sẽ không lớn, con cái không được hưng vượng. Tập tục của người tộc người tộc Bạch là, ngày chuyển cữu không được nhằm vào ngày dần (hổ) và ngày thìn (rồng). Tộc người Tích Bá thì cho rằng, chuyển cữu vào ngày thân sẽ không tốt, vì vậy mà phải kỵ. Còn một số tộc người và khu vực khác thì không những kỵ ngày mà còn kỵ giờ. Ở một dãy vùng Phương Thành, Hà Nam, nếu cả hai cha mẹ đều chết thì không có gì đáng lo cả. Nhưng nếu chết lẻ, thì theo âm lịch, không được chọn ngày chẵn để chuyển cữu, phải đợi đến ngày lẻ mới được. Thường thì phải đợi đến lúc sau buổi trưa mới được, nếu không, sẽ mang đến điều bất lợi cho người già còn lại kia. Ở tộc người Di, nếu trong nhà có người chết, thì thời gian giữ lại trong nhà thường là rất ngắn. Thông thường, nếu chết vào buổi sáng thì cho táng vào buổi chiều, nếu chết vào buổi chiều thì cho táng vào lúc bình minh. Nhưng cấm kỵ không được chuyển cữu vào buổi trưa, vì người ta cho rằng nếu chuyển cữu vào buổi trưa thì sẽ nhận lấy những tai họa bất thường, rất xấu.
Đối với việc lựa chọn đất táng, thì người tộc Hán cũng có sự cân nhắc tính toán kỹ lưỡng. Người ta cho rằng, sự tốt xấu của việc chọn đất chôn cất cũng có thể quan hệ trực tiếp đến sự giàu nghèo, thọ yểu, cát hung của con cháu đời sau. Trong quyển “Táng Kinh” của Quách Phác đời Tấn cũng có nhắc đến quan hệ giữa việc thay đổi đất táng với sự hưng suy của đời sau. Sau này, người đời càng lúc càng thần bí hóa việc chọn đất táng lên. Trong dân gian xuất hiện ra một tầng lớp thuật sĩ chuyên xem đất mộ táng, tục gọi là phong thủy tiên sinh. Cấm kỵ đối với đất táng cũng rất nhiều và rất phức tạp, nào là “long mạch địa huyệt”, “thủy pháp”, “sa pháp” v.v. Ví dụ như thế núi thì thích thế nhô hai đầu, kỵ thế hai đầu lõm xuống. Tục gọi là “Thế núi nhô hai đầu, con cháu đời sau phú quý, thế núi trũng hai đầu, con cháu ăn xin mãi chẳng về”. Còn nước thì kỵ thế nước cuộn tóe, phép nước bảo rằng: “Nơi nước sâu dân giàu sang, nơi nước nông dân nghèo khó, nơi nước tụ dân ở đông, nơi nước tản dân ly cách”. Một quy luật chung là thế này, họ thích môi trường tự nhiên có dáng đẹp, kỵ những nơi có diện mạo gập ghềnh, cổ quái hay lệch vẹo cheo leo. Thời xưa còn lưu hành một bài ca dao dân gian “Thập bất táng” (mười nơi không nên táng) như sau:
Một không táng trên hòn đá thô nghiêng
Hai không táng trên bãi đất nơi nước xiết
Ba không táng nơi nguồn nước cụt
Bốn không táng trên quả núi trơ vơ
Năm không táng ở trước thần sau miếu
Sáu không táng nơi trái phải nhà tù
Bảy không táng nơi chập chùng đá núi
Tám không táng nơi gió nước đìu hiu
Chín không táng nơi ngồi thấp nhỏ
Mười không táng nơi đầu mạch hổ rồng
Người tộc Bạch cũng có tập tục lựa chọn đất táng, lựa thế phong thủy. Họ cho rằng, đất táng phải có thể dựa vào núi, và mạch núi phải có thế “tả thanh long”, “hữu bạch hổ”, hậu khí phải đủ, phương hướng phải xa. Người Lặc Mặc quen để người chết chân hướng về núi, nếu không, chân của ngươi chết sẽ bước đi không vững, sẽ ảnh hưởng đến tuổi thọ của con cháu sau này.
Ở vùng Cát Lâm, bên mộ táng phải cắm bia, nhưng cấm kỵ không được cắm bia cho người chết đột ngột. Ở vùng Hà Nam, nếu như thời gian của hai lần chuyển cữu mà sát gần nhau, thì phải dùng vải đỏ đắp kín lên trên phần mộ mới trước đó, sau đó mới được làm một phần mộ thứ hai, nếu không thì sẽ không tốt. Tục ngữ có câu: “Mộ mới gặp mộ mới, tất còn người chết nữa”.
Nghi thức cử hành tang táng người chết cũng có nhiều cấm kỵ, vào ngày thường, những dụng cụ dùng trong nghi thức tang táng đều không được động vào bừa bãi, đặc biệt là quan tài thì tối kỵ việc mở vào mở ra, nếu không sẽ không tốt. Những người tham gia lễ táng cũng không được xung khắc với bát tự trong ngày giờ năm tháng sinh của người chết (Bát tự 八字: là tám chữ; gồm giờ - ngày - tháng - năm sinh của một người; ngày - giờ - tháng - năm là bốn yếu tố cơ bản để tính thời gian, mỗi yếu tố được kết hợp thành từ một can và một chi theo quy định của lịch âm dương – TDK chú). Những người như phụ nữ mang thai, người bị ác tật, người bị tội hình đều không được đưa táng, vì e rằng như thế sẽ không tốt.
Khi chuyển cữu, người con chủ tang phải ôm một cái chậu sứ nhỏ và cố ý ngã làm vỡ chậu ở phía trước quan tài, người ta gọi đó là chậu sành cũ vỡ hay chậu sành vỡ. Chậu sành là cái dùng để nấu muối, người chết không dùng được, ý là người làm con nhìn thấy vật và xúc động, làm vỡ chậu đi. Người ta cho rằng, người ôm chậu là người có thể thừa kế tài sản gia đình. Vì thế, người ta cấm kỵ không được để chậu ấy không bị vỡ ngay từ lần ngã ấy. Cũng có thể ngã làm vỡ ở phía đầu quan tài sau khi đưa quan tài vào trong phần mộ.
Đối với tộc người Dư, khi khiêng quan tài ra khỏi cửa nhà, kỵ không để đụng vào hai bên cửa, nếu không sẽ không tốt. Tộc người Tháp Tháp cho rằng, sau khi người chết được tắm sạch thì dùng vải trắng quấn lấy thi thể và đặt lên trên giá cáng dùng chung của chùa Thanh Chân. Khi ra khỏi cửa, cần phải cho phần chân ra trước, sau đó mới chuyển hướng và khiêng đến phần mộ. Ở tộc người Bố Y, đối với con gái chưa lấy chồng thì sau khi chết sẽ không được khiêng qua cửa chính, chỉ được khiêng qua cửa bên. Đối với các tộc người Mãn, người Hà Nhĩ Khắc Tư, người Hách Triết, người Ngạc Ôn Khắc ở một dãy đất phía Đông Bắc, họ có tập tục khiêng thi thể ra từ song cửa. Người ta cho rằng, cửa chính là cửa để người sống đi vào đi ra, nên cấm không để người chết đi qua. Những người khác họ, trẻ em chết đi thì yêu cầu càng nghiêm ngặt hơn, phải khiêng thi thể từ trong cửa sổ ra. Đối với tộc người Độc Long, khi chuyển cữu thì cũng không được khiêng qua cửa chính, chỉ được khiêng qua từ một lỗ trống đã được đào ra ở nền đất. Họ cho rằng, nếu khiêng người chết qua cửa chính thì trong nhà sẽ có người chết nữa, khiến cho cả nhà bị tuyệt diệt.
Tộc người Băng Long rất chú trọng đến phương hướng khi chuyển cữu trên đường. Thông thường là đầu nhỏ (chân) sẽ hướng về phía trước, đầu lớn (đầu) sẽ hướng về phía sau. Điều này có ý nghĩa là vong linh của người chết sẽ đi thẳng về phía trước, không để người ấy quay ngược trở về. Khi chuyển cữu, dân gian còn cấm kỵ không cho người khiêng quan tài nói đến chữ nặng, vì e rằng vì vậy mà sinh ra biến cố, quan tài sẽ bị rơi xuống. Khu vực Hà Nam kỵ hiện tượng quan tài bị rơi xuống trên đường chuyển cữu. Ở vùng Giang Tô, khi tang gia chuyển cữu thì những nhà lân cận đều dùng cây chổi cũ dựng ngược ở bên ngoài cửa chính, như thế thì sẽ có thể tránh được thần Táng Sát ở trên đầu quan tài, nếu không sợ sẽ phải gặp chuyện xui rủi. Vùng Trung Nguyên cũng rất cấm kỵ để các đồ dùng cho việc chuyển cữu như vàng giấy, hoa, phướn chiêu hồn v.v. bay vào cửa nhà mình, vì như thế là điều không tốt.
Khi mai táng, người Ngạc Luân Xuân cũng cấm kỵ không để mặt người chết hướng về hướng mặt trời mọc. Ở một dãy đất Hà Nam, khi chôn cất thì phải khoét một lỗ nhỏ ở đầu quan tài, đặt một cái lon thức ăn nhỏ ở dưới, gọi là hạ thực quán, ý là để cho người chết có cái ăn khi xuống dưới âm gian, không bị đói. Khi chuyển cữu, người Tháp Cát Khắc cấm không cho phụ nữ đến gần mộ, người Thái cũng cấm không cho nhìn thấy việc chôn cất. Nếu không, quỷ sẽ nhập vào trong nhà. Khi mai táng, con trai con gái để tang cấm không được ở gần bên huyệt mộ, kỵ để bóng của họ chiếu vào trong huyệt.
Trong dân gian của tộc người Hán còn cho rằng, sau khi chôn cất xong, hồn người chết sẽ có thể đi từ trong mộ ra bất cứ lúc nào, và theo người sống trở về nhà, vì vậy mà phải “vòng quang mộ ba vòng, khiến hồn không theo kịp”. Trên đường trở về nhà, cấm không được ngoái đầu nhìn lại, vì sợ rằng sẽ nhìn thấy bóng đi của hồn người chết dưới âm gian, như thế sẽ không tốt cho cả hai.
Nguồn: 鴻宇2004: 禁忌 ─ 中國民俗文化。中國社會出版社 (199頁)
(Hong Yu 2004: Cấm kỵ - Văn hóa dân tục Trung Quốc. Trung Quốc Xã hội xuất bản xã)