Tuy nhiên, để có thể đạt được những thành tựu ấy, đồng thời để nền kinh tế dễ dàng hòa nhập với dòng chảy của thế giới, Trung Quốc đã thực hiện một loạt các điều chỉnh trong chính sách phát triển, mà một trong những lĩnh vực quan trọng hàng đầu chính là văn hóa. Theo đánh giá của các chuyên gia, sự điều chỉnh chính sách về văn hóa còn quan trọng và phức tạp hơn nhiều so với các chính sách kinh tế [Zhang Xiaochong 2002], [Lôi Bôn 2002: 4-5], do khi gia nhập WTO, văn hóa là một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng sớm nhất và nặng nề nhất. Tổng quan về các yếu tố thúc đẩy quá trình điều chỉnh chính sách văn hóa ở Trung Quốc có thể như sau:
xuất hàng thủ công vốn không thể thay thế bằng công nghệ, như các làng nghề truyền thống, các cơ sở nổi tiếng v.v… Trung Quốc thực hiện chính sách cho vay lợi nhuận thấp để khuyến khích các đơn vị đầu tư mở rộng sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh. Trung Quốc chủ trương coi lĩnh vực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ là lĩnh vực thuộc thị trường văn hóa, đồng thời gắn lĩnh vực này với du lịch để tận dụng cơ hội kinh doanh. Thay vì trước đây nhập khẩu nhiều mặt hàng từ Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản thì nay Trung Quốc khuyến khích hình thức hợp tác sản xuất hoặc gia công giữa các đơn vị làm ăn kém hiệu quả và các đơn vị đã có sản phẩm đứng vững trên thị trường.
Các chính sách khác: Để phục vụ cho chính sách phát triển thị trường văn hóa, Chính phủ Trung Quốc cũng đã ban hành hoặc điều chỉnh hàng loạt các chính sách có liên quan, đặt trọng tâm vào việc sản xuất và tiêu dùng văn hóa, trong đó nổi bật là các chính sách hỗ trợ đầu vào, chính sách thuế và giá cả, chính sách chống độc quyền, và các chương trình nghiên cứu và thực nghiệm. Về chính sách hỗ trợ đầu vào, Chính phủ Trung Quốc chuyển từ phương thức quản lí lỏng lẻo, coi thị trường văn hóa là một cơ chế tự sinh tự diệt trở thành trọng tâm cải cách kính tế xã hội. Trung Quốc tăng cường hỗ trợ về vốn và kỹ thuật cho các dự án trong ngành, tạo hành lang pháp lý thông thoáng để các cơ quan hoạt động hiệu quả. Bên cạnh đó, Chính phủ còn khuyến khích và hỗ trợ tăng cường trang bị đầu tư cơ bản cho các dự án, nổi bật là việc xây dựng hoặc hiện đại hóa công nghệ sản xuất phim, hàng thủ công, các thiết bị phục vụ kênh phân phối các sản phẩm văn hóa v.v.. Về chính sách thuế và giá cả, từ trước khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng chế độ giảm thuế cho các sản phẩm văn hóa, cụ thể áp dụng mức thuế 3% cho lĩnh vực kinh doanh văn hóa so với mức 5% của các ngành kinh doanh khác. Đối với các mặt hàng văn hóa phẩm như sách báo, tạp chí, thuế giá trị gia tăng cũng được giảm đáng kể (13% so với 17% tỉ lệ cơ bản). Sau khi gia nhập WTO, Chính phủ Trung Quốc càng chú trọng hơn nữa việc áp dụng chế độ ưu đãi về thuế và giá cả của các sản phẩm văn hóa. Các mức thuế được điều chỉnh theo hướng giảm đi, kèm theo đó là chính sách bảo hộ sản xuất các sản phẩm chất lượng cao mang tính tiêu biểu (đã nêu trên). Song song đó, Chính phủ cũng đã chủ trương áp dụng nhiều loại giá khác nhau phù hợp với từng đối tượng, ví dụ bán sách thiếu nhi giá rẻ (đôi khi rẻ hơn giá thành sản xuất), hạ giá thành sản phẩm ở khu vực miền Trung và miền Tây rẻ hơn khu vực phía Đông, áp dụng những chính sách ưu đãi về giá cho các khu vực dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó là chính sách chống độc quyền. Chính phủ Trung Quốc nhận thức được rằng độc quyền trong kinh doanh các sản phẩm văn hóa cũng tương được với việc quay về với cơ chế bao cấp, là đi ngược với dòng chảy của WTO, là con đường đi đến lạc hậu, nghèo đói. Dù rằng xóa bỏ cơ chế hoạt động độc quyền, Trung Quốc phải trả một cái giá rất đắc nhưng bắt buộc phải thực hiện triệt để. Nhiều lĩnh vực vốn do các cơ quan Nhà nước sản xuất và phân phối chính như ấn bản sách giáo khoa, băng đĩa v.v.. đã được mở ra cho các đơn vị, công ty thuộc nhiều thành phần đầu tư. Trong lĩnh vực đầu tư nghiên cứu phát triển, Trung Quốc chủ trương cải cách và nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của các trường, viện, trung tâm nghiên cứu phát triển các sản phẩm văn hóa chủ lực được Bộ Văn hóa công nhận. Với các chính sách mới ấy, thị trường văn hóa Trung Quốc đã phần nào giảm đi thế mất cân đối giữa hai nguồn: nội địa và ngoại nhập, đồng thời thể hiện xu hướng phát triển có lợi.
Để có thể thực hiện trôi chảy các chính sách nói trên, Bộ Văn hóa Trung Quốc chỉ đạo các cơ quan chủ quản phải coi trọng công tác thống kê thị trường văn hóa, kịp thời báo cáo những vấn đề cấp bách của thị trường để Bộ kịp thời điều chỉnh, xử lý.
2. Sự điều chỉnh trong cơ cấu quản lý và hoạt động văn hóa
Bộ Văn hóa Trung Quốc đưa vào hệ thống thi cử để tuyển chọn các đơn vị, các cá nhân quản lý hay hoạt động văn hóa có hiệu quả. Hệ thống này do Bộ Văn hóa trực tiếp quản lý. Đây là một hình thức mới, bước đầu đã cho ra những kết quả khả quan. Các đơn vị hoạt động nghệ thuật có quy mô lớn đưa về trung ương quản lý, tinh giảm số lượng và cơ cấu tổ chức hoạt động nhưng song song đó lại mở rộng phát triển các loại hình văn hóa nghệ thuật mới, mang tính thời đại. Qua thực hiện chế độ tuyển cử này, nhiều cán bộ quản lý không có năng lực đã được chuyển sang làm ở các bộ phận phù hợp khác. Mỗi năm có hàng vạn lao động tay nghề cao được tuyển làm cán bộ quản lý văn hóa, và cũng bằng số ấy số cán bộ năng lực kém được thuyên chuyển công tác hoặc đình chỉ hoạt động, nghỉ hưu v.v..
Về mặt hành chính, Bộ Văn hóa Trung Quốc thực hiện việc phân quyền và điều phối quản lý vĩ mô cho các cơ quan cấp dưới. Cục Hành chính Văn hóa chuyển nhiệm vụ quản lý nghiệp vụ, tăng cường chức năng lập kế hoạch, hướng dẫn thực hiện, hợp tác, kiểm tra và giám sát sang nhiệm vụ thực hiện các điều chỉnh của Chính phủ và giám sát các phản ứng của thị trường sau khi áp dụng các chính sách đã điều chỉnh. Chính phủ có chính sách hỗ trợ đặc biệt cho các đơn vị biểu diễn nghệ thuật trọng điểm và các cơ quan hành chính sự nghiệp phục vụ cộng đồng.
Để tạo thêm động lực cho quá trình nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa (kể cả lĩnh vực vật thể và phi vật thể), Bộ Văn hóa Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động bình chọn và trao giải thưởng “Văn hóa” cho các đơn vị, cá nhân có đóng góp cho hoạt động chung, nhằm tôn vinh những tập thể, cá nhân xuất sắc, khuyến khích đầu tư.
Để thực hiện chủ trương phong phú hóa các hoạt động nghệ thuật, và cũng để chuẩn bị cho sự hòa nhập vào dòng chảy chung của WTO, Trung Quốc đẩy mạnh hơn nữa chính sách “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tài” (còn gọi là chính sách Song bách), cho phép nhiều thành phần khác nhau trong xã hội tham gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Trung Quốc chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia nhiệt tình của đông đảo các tầng lớp dân chúng.
3. Chính sách phát triển văn hóa gắn với du lịch:
Thế mạnh của Trung Quốc là truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, nếu có thể kết hợp khai thác tốt, văn hóa sẽ mang lại lợi ích to lớn thông qua việc phối hợp hoạt động với du lịch. Nắm bắt được lợi điểm ấy, Chính phủ Trung Quốc chủ trương phối hợp hoạt động đồng bộ và hiệu quả giữa hai lĩnh vực này, coi đó là một trong những vấn đề trọng tâm của quá trình xã hội hóa văn hóa. Ngoài các chính sách bảo tồn các di tích văn hóa, duy trì và phát triển hoạt động bảo tàng v.v., Trung Quốc còn đưa các hoạt động văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống vào kinh doanh du lịch. Về phương diện này, Trung Quốc đã khai thác thế mạnh của mình từ trước khi gia nhập WTO rất lâu nhưng dường như sự phối hợp nói trên diễn ra hiệu quả hơn từ sau khi Trung Quốc ban hành các quy định phối hợp, hỗ trợ kinh doanh giữa hai lĩnh vực cho phù hợp với tình hình mới. Ngày nay, bất kì du khách nào bước vào các khu du lịch, nghỉ mát trọng điểm của Trung Quốc đều có thể thưởng thức các điệu múa truyền thống, các làn điệu dân ca mang đậm phong cách Á Đông cổ điển bên cạnh mua sắm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc sắc do chính người Trung Quốc làm ra. Đối với các dân tộc thiểu số, Chính phủ Trung ương và địa phương có nhiều chính sách bảo hộ sản xuất và bao tiêu sản phẩm văn hóa, đưa vào khai thác chung với thị trường du lịch.
III. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Việt Nam đang trên con đường đấu tranh để gia nhập WTO, dù muốn dù không chúng ta cũng đã đi chậm hơn so với Trung Quốc, thậm chí chậm hơn các quốc gia kém phát triển hơn chúng ta như Campuchia, Nepal.., nghĩa là chúng ta còn cần phải thực hiện rất nhiều công việc có liên quan để phù hợp với cơ chế hoạt động của WTO. Là quốc gia đi sau, chúng ta sẽ có rất nhiều bài học kinh nghiệm quý từ các quốc gia đi trước, coi đó là các vấn đề trọng tâm trong chương trình hành động hướng tới WTO. Qua khảo sát sự điều chỉnh trong chính sách văn hóa của Trung Quốc từ sau khi gia nhập WTO, một số kinh nghiệm mang tính định hướng cho văn hóa Việt Nam có thể như sau:
- Hướng hoạt động văn hóa đi vào chiều sâu, tránh tình trạng phân tán không hiệu quả. Trong thời gian dài, hoạt động văn hóa ở Việt Nam chưa được quy hoạch phát triển theo định hướng. Thông thường các hoạt động chỉ dừng lại ở mức khai thác khả năng hiện có mà chưa quan tâm đào tạo, nghiên cứu, thực nghiệm các hoạt động mới, các loại hình mới mang tính văn hóa sâu hơn. Để đưa hoạt động văn hóa đi vào chiều sâu, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của Trung Quốc các chính sách giao trách nhiệm cho các cơ quan cấp dưới, khuyến khích thành lập các công ty, tập đoàn lớn, các cơ quan trọng điểm cho hoạt động văn hóa, trong đó có thị trường văn hóa. Chúng ta phải lựa chọn những lĩnh vực thế mạnh trong văn hóa, đầu tư nhiều để làm nổi rõ cái “quốc tuý” trước làn sóng du nhập ồ ạt của văn hóa thế giới, nhất là sau khi gia nhập WTO. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần có nhiều chính sách phát triển, chế tác hoặc sản xuất các sản phẩm văn hóa chất lượng cao mang tầm cỡ quốc gia để tạo chỗ đứng vững chắc, trước hết là tạo lòng tin trong cộng đồng.
- Coi thị trường văn hóa là một trong những lĩnh vực quan trọng cần quan tâm trong phát triển kinh tế. Trung Quốc là một nước lớn, đã có truyền thống phát triển thị trường văn hóa khá mạnh nhưng vẫn bị tác động mạnh mẽ bởi dòng chảy của WTO, do vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải quan tâm hơn nữa yếu tố khai thác kinh tế trong văn hóa. Một khi gia nhập WTO, một trong những lĩnh vực chịu ảnh hưởng đầu tiên là thị trường văn hóa do sản phẩm của thị trường này mang nét đặc thù riêng, dễ thâm nhập, dễ phân phối. Việt Nam cần kết hợp hoạt động văn hóa với du lịch, đưa các sản phẩm văn hóa vào danh mục các sản phẩm phục vụ kinh doanh du lịch. Đơn cử một kinh nghiệm của thành phố Thượng Hải (Trung Quốc), khi khách du lịch đến tham quan thành phố này, ngoài tham quan các công trình hiện đại, các khu du lịch hoặc đi mua sắm, du khách còn được bố trí thưởng thức các hoạt động văn hóa nghệ thuật đặc sắc mang đậm phong cách Trung Hoa như tạp kỹ, kinh kịch, múa v.v. Trong khi đó, ở Tp. Hồ Chí Minh – một địa phương thu hút khách du lịch nước ngoài nhiều nhất nước, chúng ta vẫn chưa làm được. Ngay như ở Hà Nội cũng chỉ đưa hoạt động múa rối vào chương trình du lịch nhưng chưa có sự kết hợp hài hòa giữa hai lĩnh văn hóa và du lịch. Nhìn chung, với lợi thế nền văn hóa truyền thống đặc sắc, nếu chúng ta biết khai thác tốt, văn hóa sẽ làm lợi cho kinh tế, một khi kinh tế phát triển tốt sẽ tạo điều kiện đầu tư cho kinh tế.
- Tăng cường chính sách bảo hộ và chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa. Chính sách bảo hộ này nên hiểu theo ý nghĩa tích cực của nó, bao gồm các điều khoản ưu đãi đặc biệt dành cho lĩnh vực văn hóa. Bên cạnh việc lựa chọn các loại hình văn hóa, hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa trọng điểm để tập trung đầu tư, chúng ta cần ban hành nhiều chế độ ưu tiên về thuế, giá cả như Trung Quốc đã làm. Bảo hộ không có nghĩa là độc quyền, bảo hộ chỉ tạo điều kiện để các đơn vị tham gia hoạt động trong lĩnh vực văn hóa đẩy mạnh giải quyết đầu ra, giúp đưa hoạt động văn hóa phục vụ lợi ích quốc gia một cách hiệu quả nhất.
- Chống độc quyền, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đây cũng là một trong những lĩnh vực mà Trung Quốc quan tâm, và cũng là một trong những tiêu chí quan trọng của tổ chức WTO. Muốn tiến trình đàm phán gia nhập WTO thuận lợi, chúng ta cần có nhiều biện pháp tháo gỡ những khó khăn trong công tác chống độc quyền và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Song song với các biện pháp ấy, chúng ta cũng cần có những chính sách ưu đãi để khuyến khích các tập thể cá nhân tham gia nghiên cứu, thực nghiệm và đưa vào ứng dụng các sản phẩm hay loại hình hoạt động văn hóa mới.
- Nâng cao công tác đào tạo nhân lực quản lý văn hóa. Trung Quốc với chính sách thi tuyển công chức quản lý văn hóa cho thấy quyết tâm nâng cao năng lực quản lý và hoạt động văn hóa của quốc gia này trong cuộc chiến chống lạc hậu về văn hóa sau khi gia nhập WTO. Có lẽ việc thực hiện một biện pháp như vậy sẽ không phù hợp với Việt Nam vì chúng ta có nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa đã được đào tạo ít ỏi. Thực tế Việt Nam chỉ có một trường Đại học Văn hóa ở Hà Nội, một vài trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật tại các địa phương, một vài Khoa Văn hóa học tại các trường Đại học với số tuyển sinh hàng năm không cao, rõ ràng không thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu nhân lực quản lý và hoạt động văn hóa tại các địa phương trong cả nước. Tuy vậy, một tín hiệu khả quan hiện nay cho lĩnh vực này là các trường Đại học đã mạnh dạn tăng cường đào tạo Sau Đại học các chuyên ngành Văn hóa học. Trong tương lai không xa, nguồn nhân lực chất lượng cao cho lĩnh vực văn hóa sẽ phong phú hơn, nhờ đó các hoạt động của lĩnh vực văn hóa sẽ khởi sắc hơn.
- Song song với quátrình củng cố, điều chỉnh chính sách văn hóa nội địa là công tác tiếp thu, học hỏi cái mới. Chúng ta cần có thái độ mở hơn trong việc nhìn nhận các giá trị văn hóa ngoại lai và khả năng tham gia làm giàu hơn vốn văn hóa Việt Nam. Về mặt này, Trung Quốc cho rằng chính trong dòng chảy của WTO, Trung Quốc sẽ tiếp nhận những giá trị văn hóa mới làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của mình.
Cùng với sự phát triển của lĩnh vực kinh tế và những nỗ lực của Bộ Văn hóa Thông tin, triển vọng phát triển của văn hóa Việt Nam trong tương lai là rất lớn. Tuy vậy, liệu chúng ta có thể đẩy nhanh tiến độ thực hiện công cuộc hiện đại hóa văn hóa hay không, điều đó còn tùy thuộc vào khả năng nhận biết và điều chỉnh các chính sách của chúng ta.
Tài liệu tham khảo:
1. Lôi Bôn (2002), “Mạn đàm về nền công nghiệp văn hóa Trung Quốc sau khi gia nhập WTO”, Tạp chí Giao lưu văn hoá Trung Quốc và thế giới số 8,9/2002, Bắc Kinh, tr. 4-6.
2. Du Minh Khiêm (2003), “Trung Quốc gia nhập WTO – một năm nhìn lại”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2003, tr. 8-20
3. Nguyễn Văn Mỹ (2002), “Trung Quốc vào WTO – chặng đường cam go trên 15 năm”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5/2002, tr. 26-30.
4. Phạm Ngọc Thạch (2003), “Trung Quốc với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3/2003, tr. 21-34.
5. http://www.uscc.gov.wtocult.pdf.
6. http://www.china.org.cn/english/2002/Mar/28871.html
7. http://www.chinadaily.com.cn/hightlights/culture/newsdb/speech/sun.html
8. http://www.chinatradeworld.com/en/wto338_en.html
9. http://www.culturalink.gov.cn/rulesoflaw/
10. http://www.culturelink.or.kr/policy_china.html
11. http://www.chinaembassy.org.il/eng/24735.html