Mặc dù vậy, văn hoá học, với lịch sử còn khá non trẻ, vẫn ngày càng chứng tỏ được tính chuyên ngành và tiềm năng phát triển mạnh mẽ của mình. Chính giới nghiên cứu Âu - Mỹ, dù chối bỏ thuật ngữ Culturology do L.A. White đề xuất năm 1949(2), coi đó là “một từ vụng về” (a clumsy word), cũng không phủ nhận vai trò ngày càng quan trọng của văn hoá, đòi hỏi nghiên cứu văn hoá cả ở bề rộng lẫn chiều sâu và có tính chuyên ngành cao. Năm 1964, trường Đại học Birmingham thành lập Trung tâm nghiên cứu văn hoá đương đại (Contemporary Cultural Studies), đến năm 1972 trung tâm này ấn hành ấn phẩm đầu tiên Working papers in Cultural Studies với mục đích “đưa nghiên cứu văn hoá lên bản đồ của tri thức”. Tên gọi “Cultural studies” xuất hiện từ đó(3). Cũng từ những năm này, gắn với truyền thống nghiên cứu và kinh nghiệm của ngành Đông phương học Nga, trước sự phát triển mạnh mẽ của ngành khoa học xã hội và nhân văn Nga, người Nga đã chọn thuật ngữ Culturology để chỉ ngành khoa học lấy văn hoá làm đối tượng nghiên cứu chuyên biệt. Đó là ngành khoa học, theo A.Ia. Phlier, “hình thành trên vùng tiếp giáp của các tri thức xã hội và nhân văn về con người và xã hội, nghiên cứu văn hoá như một chỉnh thể toàn vẹn, như một chức năng đặc biệt và như tính tình thái của tồn tại con người”(4). Văn hoá học Nga đã có những đóng góp quan trọng cho khoa học văn hoá và đang phát triển ngày càng mạnh mẽ, đang là một trong những ngành chính của khoa học nhân văn Nga và đi đầu về phương pháp luận trong nghiên cứu và giảng dạy. Hiện quan điểm văn hoá học của Nga đang được giới thiệu khá rộng rãi ở Âu - Mỹ, tiêu biểu như các công trình của Mikhail Epstein – hiện là giáo sư về lý luận văn hoá học và văn học Nga của trường Đại học Emory, Atlanta, Georgia, Hoa Kỳ(5).
Nhận diện rõ hơn những đặc điểm của văn hoá học với tư cách là một khoa học chuyên ngành đến nay vẫn là việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn, nhất là đối với ngành văn hoá học còn khá non trẻ ở nước ta. Một trong những hướng góp phần nhận diện rõ hơn tính chất chuyên ngành của văn hoá học là so sánh văn hoá học với các chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn khác. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi bước đầu so sánh văn hoá học với nghiên cứu văn học trên các phương diện cơ bản để tìm ra những tương đồng, khác biệt cũng như những mối quan hệ của hai ngành học này, qua đó, góp phần làm rõ hơn những đặc điểm cơ bản của văn hoá học trong so sánh với khoa nghiên cứu văn học.
1. VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Văn học không chỉ là đối tượng nghiên cứu của khoa nghiên cứu văn học. Văn học, với những mảng sáng tác đặc thù của nó, có thể là đối tượng quan tâm của dân tộc học, sử học, nhân học, xã hội học, tâm lý học…, và cả văn hoá học. Tzvetan Todorov từng nhận xét về Freud: “Freud phân tích các tác phẩm văn học, nhưng các nghiên cứu của ông không liên quan đến “khoa học văn học”, mà đến phân tâm học. Các khoa học nhân văn khác có thể sử dụng văn học như chất liệu cho những nghiên cứu của mình, nhưng nếu đạt được kết quả thì chúng trở thành một bộ phận của các khoa học tương ứng, chứ không thuộc lĩnh vực của những trước tác bàn về văn học”(6).
Tuy nhiên, với tư cách là một khoa học chuyên ngành, nghiên cứu văn học có quan niệm riêng và có cách xác định riêng về đối tượng nghiên cứu của mình. Nó nghiên cứu văn học không phải như những tài liệu phụ trợ mà như một hệ thống với những biểu hiện phong phú, đa dạng của nó, trên cả bình diện lịch đại lẫn đồng đại. Khoa nghiên cứu văn học nghiên cứu những vấn đề có tính bản thể của văn học, nghiên cứu cái lý tồn tại của văn học (đặc trưng, chức năng của văn học), nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của văn học (văn học sử), nghiên cứu quy trình văn học, từ khâu sáng tác đến khâu tiếp nhận… Nói chung nghiên cứu văn học vừa đi sâu vào những đặc điểm phổ quát của văn học, vừa đi sâu vào các phương diện cụ thể của văn học trong so sánh với các hình thái ý thức, các loại hình nghệ thuật khác. Việc đi sâu vào đối tượng nghiên cứu đòi hỏi khoa nghiên cứu văn học phải có sự phân công thành những bộ môn có tính chuyên sâu như lý luận văn học, văn học sử, phê bình văn học… Trong nội bộ của một nền văn học cũng phải phân ra các bộ phận văn học (văn học dân gian, văn học viết), các giai đoạn, thời kỳ văn học (văn học cổ đại, văn học trung đại, văn học hiện đại). Chỉ riêng quan niệm về văn học cũng thật khó nói so với quan niệm về văn hoá quan niệm nào phức tạp hơn, khó nắm bắt hơn. Hiện nay trên đà phát triển của mình, do nhu cầu hiểu sâu hơn những vấn đề văn học, phải nhìn văn học ở cấp độ toàn thế giới trong những mối quan hệ phức tạp, đa tầng của nó nên văn học so sánh đang đặc biệt phát triển và có xu hướng tách ra như một chuyên ngành đặc biệt của khoa nghiên cứu văn học. Những nhiệm vụ trên chỉ có thể giải quyết được với một khoa học chuyên ngành về văn học.
Tương tự như vậy, khi xác định văn hoá học là một khoa học chuyên ngành, rõ ràng văn hoá học không trùm lên các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Văn hoá là khái niệm rất rộng, văn hoá có mặt trong khắp các hoạt động của con người, nhưng nếu như các ngành khoa học xã hội nhân văn khác đi sâu vào đối tượng chuyên ngành của mình, và tất nhiên là quan tâm đến những mặt văn hoá và những vấn đề văn hoá liên quan trực tiếp đến đối tượng của mình (như đối tượng của nhân học là nhân loại – anthropos, nhưng nhân học quan tâm đến mặt văn hoá của nhân loại nên có nhân học văn hoá; và tương tự như vậy với triết học văn hoá, xã hội học văn hoá, ngôn ngữ học văn hoá, sử văn hoá, địa văn hoá…) thì văn hoá học lấy văn hoá làm đối tượng nghiên cứu của mình, gắn với sự phát triển của khoa học nhân văn trước yêu cầu nghiên cứu văn hoá một cách bao quát với tư cách là một chỉnh thể hữu cơ. Do tính bao quát này, văn hoá học, như Mikhail Epstein xác định, “quan tâm đến văn hoá với tư cách là cái toàn thể (whole), nó cũng đồng thời thừa nhận tính đa dạng của “những cái toàn thể (wholes)”(7) và văn hóa học “liên kết sự đa dạng của những hiện tượng văn hoá vốn được triết học, sử học, xã hội học, lý luận văn học nghệ thuật… nghiên cứu một cách biệt lập”(8). Như vậy, văn hoá học không làm thay, và không thể làm thay, cho bất kỳ khoa học chuyên ngành với đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của chuyên ngành đó. Có thể nói, càng đi sâu vào đối tượng chuyên biệt, các ngành khoa học xã hội nhân văn càng gặp những mối liên hệ hữu cơ, phức tạp với các biểu hiện đa dạng của văn hoá, và bằng con đường này, các ngành khoa học xã hội nhân đã góp phần thúc đẩy sự ra đời của văn hoá học; ngược lại, văn hoá học sẽ góp phần quan trọng trong việc cung cấp những góc nhìn, những quan điểm phương pháp luận mới đối với nhiều ngành khoa học trong việc nghiên cứu, tiếp cận đối tượng chuyên biệt của mình.
Xét trong mối quan hệ giữa văn học và văn hoá, có thể thấy văn học là một bộ phận của văn hoá. Đây là mối quan hệ biện chứng, phản ánh đặc điểm có tính quy luật của quan hệ riêng chung có tầm cấp triết học - “… cái riêng chỉ tồn tại trong mức độ nó liên hệ với cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng…”(9). Nghiên cứu văn học không thể tách rời văn học với những mối liên hệ với nhiều bộ phận (cái riêng) khác, và nhất là không thể không đặt nó trong mối quan hệ với văn hoá (cái chung) với tư cách là toàn bộ sáng tạo vật chất và tinh thần của nhân loại, như M. Bakhtin xác định: “Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó tồn tại”(10). Mối quan hệ giữa văn học và văn hoá còn là mối quan hệ đa chiều kích và có tính nguyên tắc. Ngay cả những trường phái văn học, tiêu biểu như chủ nghĩa hình thức Nga, nhấn mạnh đến tính tự trị của văn học, tưởng chừng như tách rời văn học với những mối liên hệ khác, nhưng như chính những chủ soái của trường phái này khẳng định: “Cả Tynianov và Mukarovski, cả Chklovski và tôi, chúng tôi không cho rằng nghệ thuật chỉ cần cho bản thân nó. Trái lại, chúng tôi chỉ ra rằng nghệ thuật là một bộ phận của toà lâu đài xã hội, là một phần hợp thành có tương quan với những bộ phận khác(11). Ngược lại, văn hoá học với tư cách là khoa học nghiên cứu văn hoá trong tính thống nhất đa dạng của nó không thể không quan tâm đến văn học, một trong những bộ phận nhạy cảm và trọng yếu của văn hoá, nhất là đối với những nền văn hoá trong đó văn học đóng vai trò đặc biệt quan trọng, như nền văn hoá Trung Hoa, Việt Nam chẳng hạn(12). Ở nước ta không ít công trình nghiên cứu văn học đi sâu vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam, xem bản sắc dân tộc như là phẩm chất của văn học, và cũng có không ít những công trình nghiên cứu văn hoá xem trọng dẫn liệu văn học như những dấu hiệu, những tiêu chí góp phần làm sáng tỏ đặc điểm văn hoá, bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mối quan hệ riêng chung, tổng thể và bộ phận giữa văn học và văn hoá như nêu trên không có nghĩa là đối tượng nghiên cứu của văn hoá học bao trùm lên đối tượng nghiên cứu của khoa nghiên cứu văn học. Văn hoá học bao quát toàn bộ hiện tượng và những biểu hiện đa dạng của văn hoá trong đó có văn học, nhưng văn hoá học không đi sâu, và không thể đi sâu vào những vấn đề có tính bản thể luận của văn học và những biểu hiện đa dạng của nó. Vả lại, bên cạnh văn học còn biết bao lĩnh vực khác đòi hỏi tính chuyên ngành cao. Như vậy, so với các chuyên ngành khoa học khác, tính chuyên ngành của văn hoá học chính là ở độ bao quát, liên kết các hiện tượng đa dạng của văn hoá, các lĩnh vực của văn hoá, nhìn văn hoá trong tính thống nhất đa dạng của nó mà không đi sâu vào từng lĩnh vực chuyên ngành cụ thể. Trong quan hệ với chuyên ngành nghiên cứu văn học, có thấy văn hoá học xem xét văn học từ góc độ văn hoá học nghệ thuật có tính bao quát hơn là chỉ đi sâu vào văn học. Chính vì vậy, hơn đâu hết văn hoá cần những đóng góp của các nghiên cứu chuyên ngành hơn là thế chỗ hoặc làm thay cho các chuyên ngành đó.
2. VỀ QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tính chuyên ngành của một khoa học thực ra không chỉ ở đối tượng mà còn ở quan niệm về đối tượng, mục đích, quan điểm phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Dĩ nhiên đối tượng đòi hỏi những phương pháp, hệ phương pháp nghiên cứu phù hợp, nhưng bản thân phương pháp nghiên cứu cũng góp phần làm rõ hơn những đặc trưng của đối tượng.
Với tư cách là khoa học chuyên ngành, trong mối quan hệ với văn hóa học, có thể thấy nghiên cứu văn học và văn hoá học có nhiều điểm tương đồng về quan điểm phương pháp luận, nhưng vẫn khác nhau về cơ bản. Cả văn hoá học và nghiên cứu văn học đều coi trọng quan điểm hệ thống trong tiếp cận đối tượng, đều vừa quan tâm đến tính thống nhất trong đa dạng của đối tượng. Những đặc trưng như tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh, tính lịch sử, tính dân tộc… của đối tượng đều được hai ngành quan tâm xem xét, nghiên cứu. Nếu như xem xét từ góc độ thời gian, văn hoá học có văn hoá sử, nghiên cứu văn học có văn học sử; nếu xem xét từ góc độ không gian, văn hoá học có văn hoá vùng, văn hoá khu vực, nghiên cứu văn học cũng có văn học vùng, văn học khu vực; nếu xem xét từ góc độ chủ thể, văn hoá học có văn hoá dân tộc, nghiên cứu văn học có văn học dân tộc… Về mặt phương pháp, văn hoá học và nghiên cứu văn học đều quan tâm đến tính liên ngành, đến việc vận dụng những thành tựu của các ngành khoa học khác áp dụng vào đối tượng nghiên cứu cụ thể của mình.
Những tương đồng kể trên là điều dễ hiểu bởi mối quan hệ giữa văn học và văn hoá là mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung, giữa bộ phận và tổng thể. Tuy nhiên, đấy là những tương đồng có tính phổ quát, khá phổ biến đối với nhiều ngành khoa học, nhất là những ngành khoa học xã hội nhân văn so với văn hoá học. Sự khác nhau giữa nghiên cứu văn học và văn hoá học chính là ở tính đặc thù của từng đối tượng, dẫn đến những quan niệm và những phương pháp nghiên cứu, tiếp cận đặc thù. Nếu như văn hoá học nghiên cứu văn hoá với tư cách là sản phẩm bao quát có tính đặc thù của chủng loại người, và do đó, một trong những quan điểm phương pháp luận của văn hoá học là nhìn văn hoá trong mối quan hệ tổng hoà với tự nhiên, tính nhân sinh, hệ giá trị, tính lịch sử… nhất thiết phải trở thành những khái niệm trung tâm của văn hoá học, thì nghiên cứu văn học nghiên cứu sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, nghiên cứu một dạng hoạt động sáng tạo đặc thù của con người. Tính nghệ thuật, chức năng thẩm mỹ, cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, thi pháp, cá tính sáng tạo, tư duy hình tượng, tác phẩm, bạn đọc, tầm đón nhận… là những khái niệm trung tâm của nghiên cứu văn học. Để làm rõ hơn những đặc điểm cơ bản của văn hoá, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của văn hoá học là xem xét mối quan hệ giữa văn hoá và văn minh, giữa văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, các khái niệm văn hoá, văn minh, văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần… trở thành những khái niệm trung tâm của văn hoá học, trong khi đó những mối quan hệ như nội dung và hình thức, chân lý cuộc sống và chân lý nghệ thuật… lại trở thành những vấn đề trọng tâm của khoa nghiên cứu văn học. Tính chất liên ngành của hai ngành khoa học này cũng khác nhau về cơ bản. Nếu như khoa nghiên cứu văn học vận dụng kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành khác có tính cách tham khảo, hoặc vận dụng các quan điểm và phương pháp nghiên cứu của các khoa học khác để tiếp cận chuyên sâu đối tượng nghiên cứu của mình nhưng thường là các phương pháp này được vận dụng riêng lẻ, ít kết hợp với nhau, và thường thay thế nhau, thì phương pháp liên ngành (interdisciplinary method) lại trở thành phương pháp luận nghiên cứu đặc thù của văn hoá học. Văn hoá học không chỉ cố gắng liên kết sự đa dạng của những hiện tượng văn hoá vốn được các khoa học chuyên ngành khác nghiên cứu một cách biệt lập, không chỉ hấp thụ kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành này mà còn vận dụng những quan điểm và phương pháp nghiên cứu của các chuyên ngành khác để giải thích một cách toàn diện bản chất của văn hoá, nghiên cứu có hiệu quả các biểu hiện đa dạng, đa chiều kích của văn hoá. Các hướng tiếp cận của triết học văn hoá, địa văn hoá, sử văn hoá, tâm lý học văn hoá, ngôn ngữ học văn hoá, nhân học văn hoá, xã hội học văn hoá, ký hiệu học văn hoá, chú giải học, chủ nghĩa cấu trúc… thường được văn hoá học vận dụng có tính tổng hợp và đồng bộ. Có như vậy, văn hoá học mới đảm bảo được tính chuyên ngành của mình trong việc xem xét văn hoá với tư cách là một chỉnh thể thống nhất trong đa dạng.
3. VỀ MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA KHOA NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ VĂN HOÁ HỌC
Khoa nghiên cứu văn học, với tư cách là một khoa học chuyên ngành, hình thành khá sớm so với văn hoá học.
Trong quá trình phát triển lịch sử của mình, cũng như nhiều ngành khoa học khác, nghiên cứu văn học đã góp phần to lớn trong việc nhận thức về vai trò của văn hoá trong sáng tạo và tiếp nhận văn học, cũng như trong đời sống xã hội. Không ít công trình nghiên cứu văn học được coi là góp phần đặt nền móng và thúc đẩy cho văn hoá học Nga ra đời và phát triển, tiêu biểu như những công trình của M. Bakhtin (1895-1875), V. Skhlovsi (1893-1984), Yuri Lotman (1922-1993)… Những công trình của họ gợi nên những quan niệm và những hướng tiếp cận hiện đại trong nghiên cứu văn hoá. Bakhtin được coi là đại biểu cho “trường phái văn học” và Y. Lotman được coi là nhà “ký hiệu học” trong lý luận văn hoá học Nga, dù xuất phát điểm của họ là nghiên cứu văn học. Những luận điểm của Bakhtin về bản chất đối thoại (dialogic nature) của văn học và văn hoá, về tính hệ thống và về mối quan hệ liên tục và phụ thuộc lẫn nhau giữa các lĩnh vực đa dạng của văn hoá, về đời sống năng động và mạnh mẽ của văn hoá diễn ra ngay trên những đường biên của những lĩnh vực riêng của nó chứ không phải ở những nơi tập trung những đặc trưng riêng của từng lĩnh vực; những gợi ý của Y. Lotman về ký hiệu học, xem văn học, văn hoá như những văn bản, những mã ký hiệu; những gợi ý của V. Skhlovsi về tính “lạ hoá” trong sáng tạo nghệ thuật… đã đóng góp quan trọng cho nền lý luận của văn hoá học thế giới và cả trong nghiên cứu thực tiễn văn hóa. Vận dụng những gợi ý của Skhlovski Mikhail Epstein viết: “Bằng cách tương tự, văn hoá học là con đường trải nghiệm tính văn hoá (culturality) của văn hoá. Nếu nghệ thuật, với tư cách là một bộ phận của văn hoá, phá vỡ tính vô thức-tự động trong cảm nhận của chúng ta về đối tượng, thì văn hoá học phá vỡ cảm nhận vô thức-tự động của chúng ta về nghệ thuật và về bản thân văn hoá, phơi ra những cấu trúc nhân tạo và những bất ngờ, và vì vậy cho phép chúng ta vượt qua tính vô thức-tự động của đối tượng. Văn hoá học kéo chúng ta ra xa và làm “lạ hoá” chúng ta với văn hoá – nơi chúng ta sinh trưởng và được giáo dục, và vì vậy nó chuẩn bị cho chúng ta sáng tạo văn hoá một cách tự do”(13) là một trong những minh chứng tiêu biểu cho các trường hợp này.
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu văn học văn học, cả văn học dân gian và văn học viết, với những tên tuổi như Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Vũ Ngọc Khánh, Trần Đình Hượu, Phan Ngọc, Trần Đình Sử, Nguyễn Huệ Chi… không chỉ cung cấp những dữ liệu quan trọng cho các nhà văn hoá học mà còn góp phần không nhỏ cho sự góp phần làm nên diện mạo của văn hoá học còn khá non trẻ ở nước ta. Khi văn hoá học chưa thật sự được nói đến ở nước ta, nghiên cứu văn học, nhất là mảng nghiên cứu văn học dân gian và văn học Việt Nam trung đại, đã “làm thay” rất nhiều công việc của nhà nghiên cứu văn hoá và không phải ngẫu nhiên, không ít nhà nghiên cứu văn học ở nước ta, như con đường đi tất phải đến, vừa là nhà nhà nghiên cứu văn học vừa là nhà nghiên cứu văn hoá. Lý luận về sự giao thoa giữa văn học và văn hoá trong lý luận văn học thế giới được giới thiệu khá phong phú ở nước ta cũng là một trong những cơ sở giúp nghiên cứu văn học ngày càng khám phá những chiều kích văn hoá trong đời sống năng động của văn học nước nhà.
Trong khi đó, văn hoá học ra đời muộn, còn khá non trẻ, nhưng cũng đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của nghiên cứu văn học. Với văn hoá học, vai trò của văn hoá ngày càng được ý thức sâu sắc hơn. Khoa nghiên cứu văn học ngày càng ý thức hơn về mối quan hệ giữa văn học với văn hoá, đặc biệt là nghiên cứu văn học tiếp nhận ở văn hoá học quan điểm về tính tương tác của các hệ thống văn hoá, về góc nhìn văn hoá trong nghiên cứu đối tượng đặc thù của mình. Ở nước ta hiện nay nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hoá đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đạt được những thành tựu mới mẻ, đầy triển vọng như các công trình nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Thuý – Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học (1997), Trần Ngọc Vương – Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (1997), Đỗ Lai Thuý - Từ cái nhìn văn hoá (1999), Trần Nho Thìn – Văn học trung đại Việt Nam dưới cái nhìn văn hoá (2003)…
N.V.H - 2006
CHÚ THÍCH
(1) Chẳng hạn V.M. Megiuép viết: “có lẽ sẽ sai lầm nếu hiểu văn hoá học là một khoa học nào đó đã dứt khoát hình thành cùng với ranh giới đã được tách biệt rõ ràng của một bộ môn khoa học với một hệ thống tri thức đã hoàn toàn hình thành. Văn hoá học thực ra là một tên gọi chung để chỉ cả một tổ hợp các khoa học khác nhau, nghiên cứu hành vi văn hoá của con người và của các cộng đồng người ở các giai đoạn tồn tại lịch sử khác nhau của họ” [V.M. Megiuép, Mô hình cổ điển của văn hoá: vấn đề văn hoá trong triết học cận đại…, 1995. Dẫn theo V.M. Rozin, Văn hoá học, Nguyễn Hồng Minh dịch, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.: 2000, tr. 78].
(2) L.A. White khẳng định: “Việc giải thích văn hoá là, và phải là, thuộc về văn hoá học… “Văn hoá học” xác định rõ phạm vi thực tại và là một khoa học” (L.A. White, The Science of Culture: A study of Man and Civilisation, 1949. Dẫn theo Mikhail Eptein, Transcultural Experiments: Russian and American Models of Creative Communication. Newyork: St. Martin ‘s Press, tr. 30.
(3) Mikhail Epstein, Transcultural Experiments: Russian and American Models of Creative Communication. New York: St. Martin’s Press, 1999, tr. 22.
(4) A. Ia. Phlier, Văn hoá học là gì?. Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 2.2003, tr. 92-96, tr.92.
(5) Chẳng hạn:
After The Future: The Paradoxes of Postmodernism and Contemporary Russian Culture, University of Massachusetts Press, 1995.
Transculture Experiments: Russian and American Models of Creative Communication, St. Martin’s Press, 1999.
Russian Postmodernism: New Perspectives on Post-Soviet Culture, Berghahn, 1999.
Cries in the New Wilderness: From the Files of the Moscow Institute of Atheism, Paul Dry Books, 2002.
(6) Tzvetan Todorov, “Thi pháp học”, trong Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (Trịnh Bá Dĩnh dịch), Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.: 2002, tr. 451.
(7) (8) Mikhail Epstein, sđd, tr.15.
(9) Lênin, Bút ký triết học, Nxb. Sự thật, H.: 1963, tr. 384.
(10) Nhiều tác giả, Các vấn đề của khoa học văn học, Nxb. Khoa học xã hội, H.: 1990, tr. 362.
(11) Roman Jakovson, “Thơ là gì?”, trong Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (Trịnh Bá Dĩnh dịch), Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.: 2002, tr. 183.
(12) Chẳng hạn Lê Ngọc Trà viết: “Suốt mấy nghìn năm tồn tại, Việt Nam không có được những công trình triết học lớn, những nhà triết học vĩ đại như các dân tộc khác. Trong lĩnh vực đạo đức và tôn giáo cũng vậy. Văn chương trở thành hoạt động sáng tạo chủ yếu và quan trọng nhất chuyên chở không chỉ ký ức và tình cảm của con người, mà cả những tư tưởng xã hội, những chime nghiệm về mệnh trời và mệnh người, về vận nước và cách đối nhân xử thế trong cuộc sống” [Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo Thách thức của văn hoá, Nxb. Thanh niên, H.: 2001, tr. 8-9].
(13) Mikhail Epstein, sđd, tr. 23.
Nguồn: Tác giả