gửi bởi hoangthao_vhhk2 » Thứ 4 14/04/10 8:06
Không có nền văn hóa nào phát triển mà không giao lưu với bên ngoài. Việt nam cũng không ngoại lệ. Và một điều đặc biệt, Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc, một trong những nền văn minh lớn của thế giới. Điều này cũng tạo ra vô số điều thuận lợi và cũng không tránh khỏi những khó khăn trong việc bảo vệ, xây dựng và phát triển văn hóa đân tộc, phát triển đất nước. Liệu trong hoàn cảnh đó, chúng ta phải mở cửa, giao lưu như thế nào cho hợp lý,làm thế nào để hào nhập mà không hòa tan, đó mới là điều quan trọng.
Chúng ta đã làm được điều đó. Trên cơ sở vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố văn hóa Đông Nam Á,Ấn Độ...Có tác dụng trung hòa những ảnh hưởng to lớn của văn hóa Trung Hoa khiến cho văn hóa Việt vẫn mang tính chát độc đáo, đặc thù, khác và có thể phân biệt đuọc với văn hóa Trung Hoa, vẫn duyên dáng hơn trong sắc thái hòa đồng văn hóa. Nhân dân ta đã biết biến những cái đi vay thành tài tài sản của dân tộc, đặng bồi dưỡng xây dựng và phát triển nền kinh tế văn hóa dân tộc
Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Về văn hóa vật chất chẳng hạn, từ chõ tiếp thu kĩ thuật làm giấy của người Trung Quốc, nhân dân ta đã tìm tòi, khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ trầm,rêu biển)để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng có phần hơn sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kỹ thuật gốm sự Trung Quốc, ta vẫn sản xuất các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu voi...
Chủ thể mang truyền thống văn hóa ngàn xưa và sáng tạo nền văn hóa mới trong khi không ngừng hấp thu và hôi nhập những yếu tố văn hóa ngoại sinh. Đấu tranh văn hóa, trước tiên là đâu tranh thường xuyên, chống âm mưu đồng hóa của kẻ thù để bảo tồn nòi giồng Việt. Biểu hiện rõ rêt của sự bảo tồn giống nòi và văn hóa Việt, tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc.
Tiếng nói là một thành tựu của văn hóa, là một thành phần của văn hóa. Tiếng Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xa xưa ở miền Đông Nam Á, điều đó chứng tỏ cái gốc tích ra đời, bản địa của dân tộc ở trên dải đất này.
Khi đế chế Trung Hoa chinh hục và kiểm soát chặt chẽ, tiêng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diêt được tiếng Việt bởi lý do rất đơn giản chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt vẫn sống theo cách sống của riêng mình, cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn người Việt
Cố nhiên dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài, trong cuộc sống đã xảy ra những biến cố về mặt vật chất và tinh thần, đã nảy sinh những nhu cầu mới. cho nên tiếng Việt cũng cần phải biến đổi và phát triển.Trải qua nhiều thế kỷ, tiếng Việt phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. nó đã hấp thu nhiều từ gốc Hán. người ta thấy được những yếu tố gốc Hán ngay trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã tiế thu ảnh hương Hán ngữmột cách độc đáo sáng tạo, đã Việt hóa những từ ấy bằng cách dùng, cách đọc tạo thành một từ mới mà sau này gọ là từ hán Việt. ( Có một quá trình ngược lại, nhiều từ Việt được hội nhập và hán ngữ và tạo nên một lớp từ Việt- Hán)
Trong 1000 năm đô hộ, Trung Hoa đã ra sức đưa vào xã hội Việt nhiều thứ lễ giáo ( đồng hóa về văn hóa).Ở đây mình nói đến đạo Nho.Điều đó nhất định có ảnh hưởng đến Văn hóa Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta có khả năng thích ứng vô hạn với mọi tình thế trong khi truyền thống dân tộc và dân gian của nền văn hóa Việt Nam vẫn được giữ gìn và phát triển.
Trước hết là phạm trù Nhân Nghĩa. Trong ngũ luân ,nghĩa là trong năm quan hệ vua tôi, cha con ,vợ chồng,anh em, bè bạn ,cái quan hệ vua tôi đứng đầu ,vì thế nghĩa trung quân,tinh thần tuyệt đối tin tưởng và phục tùng nhà vua là nội dung trung tâm của học thuyết nhân nghĩa của Khổng Tử . Còn ở Việt Nam tình cảm vua tôi lành mạnh được xây dựng trên tinh thần yêu nước sâu sắc của nhân dân ta. Tình cảm ấy xa lạ với thái độ sợ hãi và tôn sùng một vị hoàng đế đựơc thần thành hoá và đối lập với nhân dân
Trong quan hệ với vua ,nhân dân Việt nam vẫn duy trì nếp sống cổ truyền của công xã,duy trì những quan hệ bình đẳng ,dân chủ đối với công việc chung trong làng, bảo vệ những qui tắc tốt đẹp do mình đặt ra. Uy quyền của nhà vua nhiều lúc không phá vỡ những luật lệ ấy “ phép vua thua lệ làng” là như thế . Với tinh thần ấy nhân dân ta không thể thừa nhận được cái “ nhân nghĩa “ của Khổng Tử
Về quan hệ cha con chồng vợ ,truyền thống của dân tộc ta cũng khác với đạo lí của Khổng Tử.Dân tộc ta từ lâu đời đã xây dựng những tình cảm sâu sắc và thuỷ chung giữa cha mẹ với con cái và trong tình nghĩa anh em,vợ chồng,bè bạn. Đó là những tình cảm lành mạnh và bình đẳng .Tình cảm ấy không giống với chữ hiếu mù quáng của Khổng Tử .Khổng Tử đòi hỏi một sụ phục tùng tuyệt đối của con cháu đối với cha ông và cha ông là mẫu mực của con cháu. Còn Việt Nam thì luôn hướng về trước,tin tưởng ở ngày mai “con hơn cha là nhà có phúc”.
Trong Nho giáo tư tưởng khinh rẽ phụ nữ là nổi bật. Theo Khổng Tử phụ nữ là kẻ khó dạy nên ông buộc phụ nữ phải tam tòng tứ , đức địa vị đàn ông được đề cao. Nho giáo khuyến khích một thứ quan hệ bình đẳng là người vợ phải luôn kính trọng với người chống còn người chồng thì có quyền đánh vợ và bỏ vợ. Đối với dân tộc Việt Nam đánh giá đạo đức của người phụ nữ theo một tiêu chuẩn khác. Những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ là khí phách anh hùng trong dựng nước và giữ nước: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” Khác với lễ giáo phong kiến,quan hệ vợ chồng ở Việt Nam là quan hệ bình đẳng “thuận vợ thuận chồng tác biển đông cũng cạn”.Vai trò của phu nữ trong gia đình và ngaoì xã hội vẫn được đề cao.
Sách "Nam phương thảo mộc trạng" ( thế kỷ III), chép rằng người Nam có con giá lớn vài tuổi đã bắt đầu nấu lọc rượu, đựng trong bình hũ kín, đem chôn ở bờ ao. Khi con gái sắp lấy chồng, người ta mới đào bờ ao lấy rượu lên đãi khách, gọi là rượi' Con giá", vị rất đằm và ngon...
Theo "Quảng chây ký " và nhiều sách khác, một phong tục cổ truyền của người Việt là đúc và sử dụng đồng. Trống đúc xong cả làngđược mời đến dự lễ mừng.Người đàu tiên được vinh dự đánh trống đồng là một phụ nữ trong làng
ngôi chùa được xây dựng vào loại sớm nhất trên đất Việt là chùa Pháp Vân. Chùa mang tên là Bà Dâu, tượn bà Dâu to hơn mọi tượng Phật
Nho giáo ở Việt Nam vận dụng một cách sáng tạo và uyển chuyển nhiều khi trái ngược với nho giáo.Nho giáo trọng cha chứ không trọng mẹ và trọng nam chứ không trọng nữ còn Việt Nam thì trọng cả hai
Về thái độ đối với nghề buôn. Nho giáo Trung Hoa khuyến khích làm giàu nếu nó khộng trái với lễ : “phú quí mà có thể cầu được thì dù làm kẻ câm roi đánh xe hầu người, ta cũng làm” (luận ngữ).Làm giàu không chỉ nên mà cò là trách nhiệm của người cai trị:Mạnh Tử từng bàn đến các vấn đề trao đổi hàng hoá ,giá cả, chính sách thu thuế chợ …ông nói “người ta có hằng sản mới có hằng tâm”. Chính vì vậy mà ở trung Hoa ,nho giáo không hề cản trở nghề buôn phát triển
Trong khi đó ở Việt Nam với văn hoá nông nghịêp đậm nét, với tính cộng động và tính tự trị ,lại có truyền thống khinh rẽ nghề buôn khiến cho nghề buôn trong lịch sử không phat triển .Và có đường lối trọng nông ức thương “truyền thống”này khiến cho Việt Nam nông nghiệp đã âm tính lại còn duy trì được sự ổn định lâu dài.
Về mặt khách quan, nền thống trị của Trung Hoa " một công cụ vô ý thức của lịch sử" nói theo cách của C.Mac, đã buộc người Việt phải phá vỡ một số yếu tố truyền thống của của chế độ tư tưởng bộ lạc và công xã. Cái trớ trêu của lịch sử là chế độ đô hộ của phong kiến Trung Quốc đã đóng một vai trò một công cụ vô thức góp phần phá vỡ những tổ chưác bộ lạc và thế lực cát cứ địa hương. Xóa bỏ cơ cấu bộ lạc, giữ lại và cũng cố cơ cấu xóm làng, tăng sự cố kết dân tộc...Nhưng mặt khác, nhân dân ta biết bảo tồn và phát huy những tinh hoa của văn hóa cổ truyền, chọc lọc những yếu tố ngoại lai đẻ làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc và tăng thêm tiềm lực về mọi mặt cho đất nước.
Nền văn hóa Việt Nam không co lại để tự vệ một cách bảo thủ và cô lập. Qua sự giao lưu và tiếp biến với Văn hóa Trung Hoa, nhân dân ta đã tìm biết một Trung Hoa cao cả và tốt đẹp của nhân dân Trung Hoa, để đấu tranh chống lại cái Trung hoa tàn bạo, thấp hèn...
Như một học giả phương Tây đã nhận xét ; qua Bắc thuộc, nước việt như mọt tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền(facade) mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Không biết có do chủ quan mình là một người Việt hay không? Nhưng mình nghĩ ông cha ta, văn hóa Việt ta đã giao lưu,học hỏi và sáng tạo những nét văn hóa của Trung Hoa để trở thành văn hóa của dân tộc mình. (Mình không nghĩ Văn hóa việt là bản sao của Trung hoa dù chỉ một phần) Dù rằng nó có những nét giống nhau, bởi đơn giản cả hai quốc gia đều được xây dựng trên nền tảng văn hóa nông nghiệp, có những điểm tương dồng về mặt địa lý, tự nhiên, nhưng mỗi nền văn hóa đều mang cái hồn của dân tộc mình. Ông cha ta đã làm được điều đó, vì thế thế hệ chúng ta phải cố gắng giữ gìn và phát huy những bản ssắc dân tộc Việt, trong xu thế không chỉ với Trung Hoa mà Toàn Cầu, để xây dựng một đất nước Việt Nam, văn hóa Việt ngày càng tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, một nền văn hóa đa dạng và thống nhất.
Con tàu rồi sẽ luôn về tới sân ga.........