TRƯNG TRẮCBà là con của Lạc tướng huyện Mê Linh đất Phong Châu, sớm mồ côi cha, nhưng được mẹ Man Thiện thủ tiết thờ chồng hết lòng dạy dỗ con ngoan. Bà và Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi, từ thuở thanh xuân không chỉ nổi tiếng về nhan sắc, thông minh xuất chúng, gan dạ phi thường mà còn nổi tiếng giỏi võ nghệ kiếm cung, chăn tằm ươm tơ do mẹ truyền dạy…Hai chị em Bà lớn lên hấp thụ dòng máu kiên trung bất khuất của nòi giống Việt, sớm thấu hiểu nỗi khổ đau của dân tộc dưới kìm kẹp áp bức của nhà Hán, những tên Thái thú tham tàn, bạo ngược, chuyên đi cướp bóc áp bức bóc lột nhân dân đến tận xương tủy…
Trưng TrắcTrước uy danh cùng thanh thế của 2 Bà, Thái thú Tô Định cũng tỏ ra e gờm, Hậu Hán thư ghi nhận:
”Chị em họ Trưng thậm hùng dũng”, “Trưng Trắc nhân hữu đảm dũng”(sách “Giao châu ngoại kỷ”, câu này có nghĩa Trưng Trắc là người gan dạ, dũng cảm)
Năm Trưng Trắc tròn 20 tuổi, bà sánh duyên cùng quan Lệnh doãn huyện Châu Diên là Thi Sách, cũng thuộc dòng dõi Lạc tướng.Thi Sách là người đã từ lâu nuôi chí lớn diệt ngoại xâm, cuộc hôn nhân được xem là sự kết hợp giữa 2 vọng tộc Trưng-Thi cùng chí hướng yêu nước, tinh thần bảo tồn phong tục Việt Cổ của nhà nước Văn Lang.
Trưng Trắc và Thi SáchTrước tình hình Thái thú Tô Định ngày càng ngang tàng bạo ngược hành hạ dân lành, thẳng tay đàn áp các Lạc tướng cương trực, Thi Sách cùng vợ Trưng Trắc họp bàn đối phó cùng các nhà mưu lược như: thân mẫu Man Thiện, Cao Liên, Lê Chân, Trưng Nhị, Tạ Thị Cẩn, Lê Đình Lượng…soạn bản cáo trạng bằng Hán văn do Thi Sách đứng tên ấn triện gửi đến dinh Thái thú Tô Định. Tô Định thúc binh mà thẳng đến Châu Diên giết chết Thi Sách vào cuối năm Kỷ Hợi (39).
Đứng trước tình thế buộc phải ra tay “
đền nợ nước, trả thù nhà”, Trưng Trắc nén nỗi đau riêng, cùng em Trưng Nhị và cùng rất nhiều nữ dũng (tiêu biểu như:Hoàng Thiều Hoa,, Lê Hoa, Bảo Châu, Nguyệt Thai, Xuân Nương, Diệu Tiên…) và hàng vạn dân binh nghĩa sĩ đứng lên đánh đuổi kẻ thù. Nhân dân một lòng tin tưởng đi theo dưới ngọn cờ Hai Bà Trưng. Trong buổi lễ tế cờ vào ngày mùng 6 tháng 2 năm Canh Tý (tại Hát Môn). Trước ba quân tướng sĩ, Trưng Trắc hùng dũng bước lên đàn thề , tuốt gươm giơ cao rồi trỏ bờ sông Bạch Hạc dõng dạc tuyên thệ:
“Một xin rửa sạch quân thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin toàn vẹn sở công lệnh này” .Trước sự chỉ huy tài tình, can trường dũng mãnh của Hai Bà Trung cùng tinh thần yêu nước sục sôi của ba quân, thành Luy Lâu đại bại, Thái thú Tô Định bỏ chạy về nước. Sau chiến thắng,Trưng Trắc được các tướng lĩnh cùng nhân dân suy tôn lên làm vua vào năm Canh Tý, đóng đô tại Mê Linh, quốc hiệu là Triệu Quốc.
Nền thái bình được thiết lập chưa lâu thì tháng 2 năm Canh Sửu vua Đông Hán sai Mã Viện mang 20 vạn quân sang tiếp tục xâm lược nước ta, đất nước ta còn non yếu quân đội lại ô hợp lại phải đương đầu với một đội quân tinh nhuệ hùng dũng nên đành phải thảm bại lui về Cấm Khê,. Nhằm bảo vệ tiết tháo Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống sông Hát Giang tự tử. Có thuyết cho rằng Hai Bà lên núi Thường Sơn hóa thân,. Tướng Lưu Long phụ tá của Mã Viện cho rằng Hai Bà bị bắt và bị hành quyết, thủ cấp của Hai Bà được gửi về Lạc Dương…Dẫu sao cái chết của Hai Bà Trưng là cái chết oanh liệt nêu cao tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta!
Hai Bà Trưng anh dũng kiên cường trên chiến trận