[center]
[/center]
[center]“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”[/center]
[justify]Cây trầu, cây cau đã có mặt trên đất Việt Nam từ trước công nguyên hàng mấy ngàn năm. Nó đã từng là vật tổ của dân tộc và trở thành tên gọi của một trong hai thị tộc lớn của người Chăm: “Thị tộc Cau”. Ngay cả tên gọi “Văn Lang” của nước ta thời Hùng Vương cũng có giả thuyết cho rằng bắt nguồn từ trầu cau. Theo Bình Nguyên Lộc, tên nước “Văn Lang”, tên gọi đầu tiên của nước ta, là biến âm của từ “Vân nang” mang nghĩa là “Cau sọc”. Vân = sọc: có trong Ca dao xưa: “ quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân. Nay anh học gần, mai anh học xa. Tiền sách là của mẹ, cha. Cái nghiêng cái bút thực là của anh”. Nang = cây cau trong Tiếng việt cổ nay còn giữ lại trong tên bẹ lá cau: “mo nang”.
Tục ăn trầu cau là một phong tục cổ truyền của người Việt, có từ thời Hùng Vương tồn tại cho đến ngày nay: “nhuộm răng, ăn trầu, xăm mình”. Tục ăn trầu gắn liền với câu chuyện cổ tích nổi tiếng “Chuyện trầu cau”. Không chỉ ở Việt Nam mới có tục ăn trầu mà ở các nước Đông Nam Á cũng phổ biến tục này. Ngoài ra còn có Hoa Nam (Trung Quốc), Đài Loan, Srilanka, Ấn Độ, Đảo Madagascar (Châu Phi), …cũng ăn trầu.
Miếng trầu gồm một miếng cau, một lá trầu quệt ít vôi, cuốn lại và thường có thêm một miếng vỏ cây (rễ), chúng được hợp lại thành một mà nhai (tức là ăn trầu). Nhai xong nhổ nước và nhả bã trầu. Ăn trầu có nhai mà không có nuốt, không thuộc loại ăn mà cũng không thuộc loại uống hoặc hút, rất linh hoạt, hiếm thấy. Điều lạ hơn nữa là trầu, cau, vôi, vỏ, tất cả nếu đứng riêng rẽ thì mỗi thứ chỉ là cây, là đá, là lá, nhưng khi chúng hợp lại, hòa quyện thì tất cả bỗng trở nên đằm thắm. Ấy là khi trầu đã “bén duyên” cau. Miếng trầu là sự hòa quyện lẫn nhau giữa các hương vị. Đó là vị ngọt của cau, vị cay của lá trầu, vị đắng bùi của rễ và vị nồng nàn của vôi cùng với dịch vị tiết ra một chất kích thích làm cho người ta có cảm giác hưng phấn, khuôn mặt bừng bừng gần giống như say rượu, say nước chè tươi, say thuốc lào. Chất kích thích cũng làm thơm miệng, đôi môi đỏ thắm, đôi má ửng hồng như thoa son phấn.
[center]“Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau hỡi chàng”
(Ca dao)[/center]
[center]“Trầu xanh, cau trắng, chung hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên”.
(Ca dao)[/center]
Từng nguyên liệu trên, trước khi phối hợp với nhau đã là một phương thuốc trị nhiều bệnh. Lá trầu cay nồng, mùi thơm, tính ấm, có tính sát trùng, có tác dụng chữa bệnh nấc cục cho trẻ em (dán một đầu nhọn của lá lên trán), trị đau bụng (tính ấm), đầy hơi, sôi bụng, trừ phong thấp nhức mỏi, bệnh đau mắt cho người già, tiêu viêm, tránh nhiễm trùng đường ruột (vì có tính sát trùng). Ngoài ra lá trầu còn để cạo gió trị cảm cúm hoặc vò nát đắp quanh mụn nhọt, nấu nước tắm trị rôm sảy. Quả cau và hạt cau đều có vị chát, hơi cay, tính ấm. Chất chát làm cho răng co lại ôm sát chân răng, không bị lung lay. Nhai trầu là động tác luyện cơ hàm răng. Hạt cau có tác dụng trị giun sán. Vôi trong miếng trầu có tác dụng làm cho răng thêm chắc, sạch, giúp nhịp tim đập được điều hòa. Cho nên, ngày xưa các cụ ít bị hư răng, đau răng. Ngoài tác dụng trị bệnh, thân cau còn làm cột nhà, làm cầu, lá cau làm chất đốt, và mo cau làm quạt,…
Tục ăn trầu không chỉ có giá trị về mặt ẩm thực, chữa bệnh mà còn tiềm ẩn ở đó một triết lý âm dương sâu sắc. Cây cau vươn lên là biểu tượng cho trời (dương), vôi thuộc chất đá là biểu tượng cho đất (âm). Dây trầu mọc lên từ đất, quấn quýt lấy thân cây là biểu tượng cho vai trò trung gian giữa trời và đất (âm và dương).
Trầu cau còn là một biểu tượng văn hóa. Lá trầu biểu tượng cho sự sinh sản, nguồn cội, buồng cau chi chít những quả no tròn biểu tượng cho sự sung túc, phú quý phát triển. Vôi biểu tượng cho sự trong sạch, thanh cao. Nhưng khi tất cả hòa quyện với nhau thì sự nồng thắm xuất hiện như khẳng định tình yêu là giá trị hướng tới của con người.
Trầu cau đã đi vào mọi ngóc ngách của cuộc sống Việt Nam thời xưa, nó đã trở thành phong tục, tập quán về giao tiếp của người Việt. Miếng trầu nhân lên niềm vui, làm cho người ta thêm gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Khách đến nhà chơi, dù khách quen hay khách lạ, khách thường hay khách sang, chủ nhân bao giờ cũng có cơi trầu đãi khách. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.
Miếng trầu còn là lễ vật dâng cúng thần thánh, cúng gia tiên cùng với rượu. Đó là hai lễ vật tối thiểu cần phải có vì miếng trầu thể hiện lòng thành kính đối với thần thánh, tổ tiên. Cúng tế gia tiên thì dùng trầu têm, còn cúng thần thánh, trời đất thì phải có ba lá trầu phết một tí vôi và ba quả cau để nguyên.
Trầu cau còn là sính lễ không thể thiếu trong lễ hỏi, lễ cưới để chia vui, báo hỷ,… vì xuất phát từ sự tích trầu cau, theo lời truyền của Vua Hùng.
[center]
[/center]
Miếng trầu còn xuất hiện trong đám ma để tỏ lòng cảm ơn khách phúng điếu.
Trầu cau là biểu tượng cho tình yêu, thủy chung đôi lứa:[/justify]
[center]“Thưa rằng bác mẹ đã răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người”[/center]
[center](Ca dao)[/center]
[center]“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi,
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi.”[/center]
[center](Mời trầu – Hồ Xuân Hương)[/center]
[justify]Trầu cau còn đi vào ca khúc “Hoa cau vườn trầu”, một ca khúc rất nổi tiếng của nhạc sỹ Nguyễn Tiến: “Nhà anh có một vườn cau, nhà em có một vườn trầu, chiều chiều nhìn sang bên ấy, hoa cau bên này rụng trắng sân nhà em…”
Mặc dù tục ăn trầu hiện nay đã bị mai một nhiều nhưng trầu cau vẫn tiếp tục sống, tồn tại trong các đám cưới, trong các món đồ lễ dâng lên bàn thờ thần thánh, tổ tiên, trong lễ tang, ngày hội, tết.[/justify]