Truyền thống dân tộc Việt Nam vốn thích giao lưu học hỏi, tiếp thu kiến thức của các nước bạn trên thế giới, không chỉ riêng ở Trung Hoa. Theo mình nghĩ cách gọi Việt Nam là “bản sao” của Trung Hoa là cách gọi quá nặng nề, gần như phủ định mọi nỗ lực mà ông cha ta đã dày công học hỏi, sáng tạo trong suốt thời đại lịch sử. Bởi vì, “bản sao” có nghĩa là giống nhau 100%.
Đất nước ta bị Trung Quốc đô hộ 1000 năm, trong khoảng thời gian ấy chúng đã cố gắng đồng hóa nước ta, từ việc đem sang những phong tục tập quán đến việc bắt nhân dân ta phải ăn mặc theo kiểu phương Bắc. Bởi vì, cái mặc là biểu tượng văn hóa dân tộc, nếu như việc này thực hiện được thì bước đầu chúng coi như giành được thắng lợi. Nhưng thực tế thì Trung Quốc vẫn luôn bị thất bại. Để chống lại giặc xâm lược, các vua thời Lý, Trần đã dạy cho cung nữ cách dệt vải, không dùng vải vóc của nhà Tống.
Một nét đặc biệt trong cơ cấu tổ chức của nước ta là “làng”. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, người Trung Hoa không thể nào với tay vào can thiệp làm thay đổi cơ cấu làng xóm cổ truyền nước ta. Các xóm làng vẫn như một thế giới riêng của người Việt, là nơi nuôi dưỡng và phát triển những tinh hoa văn hóa của dân tộc, giữ được những nét riêng của người phương Nam.
Việt Nam ta là một nước thuần nông nghiệp, nên cái chất nông nghiệp thể hiện rất rõ nét, nhất là qua trang phục. Người phương Nam sở trường trong việc sử dụng các chất liệu có nguồn gốc thực vật, là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng là chất liệu may mặc mỏng, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với xứ nóng. Trước hết, đó là tơ tằm, cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang đã có từ rất sớm. Trong những di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới đây khoảng 500 năm như di chỉ Bàu Tró, đã thấy có nhiều dấu vết của vải có dọi xe bằng đất nung. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang - đó là hai công việc chủ yếu, luôn gắn liền với nhau của người nông dân Việt Nam. (
www.vietaz.com.vn). Người Trung Hoa xưa nay cũng đã luôn xem đó là những đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam. Trong chữ “Man” mà người Trung Hoa xưa dùng để gọi người phương Nam có chứa bộ “Trùng” chỉ con tằm. Từ phương Nam nghề tằm tang đã được đưa lên phương Bắc.
Vào thế kỷ XVI-XVIII khi mà tơ lụa Trung Quốc sản xuất với số lượng nhiều đã chiếm lĩnh thị trường thế giới, thì tơ lụa Việt Nam vẫn được đánh giá cao do chất lượng của nó.
Năm 1749, một người phương Tây là Poivre nhận xét: “ Tơ lụa Đàng Trong so với Trung Quốc thì hơn hẳn về phẩm chất và sự tinh tế, tơ đẹp nhất là vùng Quãng Ngãi,người Trung Quốc mua rất nhiều và kiếm lời được từ 10%-15% (
www.vietaz.com.vn).
Một mặt hàng đặc sản của Việt Nam vào thế VI đó là vải tơ chuối. Kỹ thuật đó đã đạt đến trình độ cao và rất được người Trung Quốc ưa chuộng. Họ gọi vải này là vải Giao Chỉ, từ thân chuối xé như tơ dệt thành vải, dễ rách nhưng rất đẹp, màu vàng nhạt, loại vải này rất mịn, rất hợp khi mặc vào mùa nóng.
Ngoài ra, Việt Nam ta còn sản xuất rất nhiều loại vải bằng đay, gai, bông. Kỹ thuật trồng bông dệt vải từ phương Nam du nhập sang Trung Hoa vào thế kỷ X-XI, vải bông trở thành mốt, đến nổi người Trung Hoa đương thời kêu là “vải bông mặc kín cả thiên hạ”.
Mặc dù bị đô hộ và đồng hóa nhưng dân tộc Việt Nam vẫn cố gắng giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa của dân tộc. Nếu người phương Bắc vào mùa lạnh chọn da thú làm trang phục tránh rét thì người phương Nam chọn cách đơn giản và rẻ tiền như mặc nhiều áo lồng vào nhau, hay may độn bông vào áo cho ấm như: áo bông, áo mền. Người Phương Nam ta còn dùng loại áo bằng lá gồi, gọi là áo tơi mặc đi làm đồng vừa tránh rét, tránh mưa, vừa tránh gió.