[center]
Hình tượng người quân tử trong văn hóa Trung Hoa [/center]
[justify]
1. Phẩm chất đạo đức-trí tuệNgười quân tử thường có năm đức tính quan trọng ứng với nhân, lễ nghĩa, trí, tính:
- Nhân: người với người đối xử với nhau trên cơ sở tình thương yêu. Tình thương yêu được cụ thể hóa bằng những nguyên tắc sau:
Cái gì bản thân mình không muốn hoặc người không muốn thì không làm cho người. [Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân: Khổng tử].
Mình muốn đứng vững thì làm cho người khác đứng vững; mình muốn thành đạt thì giúp đỡ cho người khác thành đạt.
- Lễ: theo quan điểm của Nho giáo, Lễ bao gồm việc thờ cúng, lễ bái và cả những quy định có tính chất pháp luật, những phong tục, tập quán và kỷ luật tinh thần của cá nhân.
- Nghĩa: chỉ làm và nên làm những việc nhằm duy trì đạo lý, lẽ phải.
- Trí: tri thức để suy xét, hành động. Một trong những điểm quan trọng của Trí là phải nắm được mệnh trời.
- Tín: việc làm nhất quán với lời nói, giữ lời. Đối với người Trung Hoa, chữ tín rất quan trọng. Họ có thể mất đi mạng sống của mình để bảo vệ danh dự, chữ tín. Ở thương trường, người Trung Hoa cũng nối tiếng với việc giữ chữ tín, chính vì vậy mà họ buôn bán thành công chăng? Chữ tín là một nét đặc biệt của đạo Khổng, và một số học giả phương Tây ngày nay cũng nhận rằng không dân tộc nào trọng đức tín bằng dân tộc Trung Hoa. Cần nhất là phải giữ chữ tín, thì các chư hầu mới đoàn kết và xã hội mới khỏi loạn. Có thể vì vậy mà sau này Khổng Tử đề cao đức tín, đặt nó gần ngang hàng với nhân, lễ, nghĩa, coi nó là đức cần thiết của người quân tử (“kẻ cai trị” dân).
Người quy tụ các đức tính trên mà trong đó trung tâm là nhân được coi là người có đức nhân: tình cảm chân thật, ngay thẳng; hết lòng vì nghĩa; nghiêm trang, tề chỉnh; rộng lượng, khoan dung và siêng năng cần mẫn. Người có đức nhân chỉ hành động vì nhân nghĩa, đối lập với kẻ bất nhân chỉ hành động vì lợi.
Hình ảnh người quân tử trong Tam quốc diễn nghĩa rất đa dạng. Tùy vào hoàng cảnh của mỗi nhân vật mà họ thể hiện mình là người quân tử theo mỗi cách riêng khiến cho toàn tác phẩm có thể cho thấy bao quát tất cả các cạnh khía của người quân tử dưới ngòi bút của La Quán Trung đồng thời đó cũng là ước vọng, khao khát của người Trung Hoa.
Tính chất quân tử của nhân vật đôi khi được thể hiện hết sức bất ngờ và nhờ đó mà cục diện chính trị thay đổi và đó có thể xem là một điểm tạo cho tác phẩm thêm phần thú vị. TrongTam quốc diễn nghĩa, ta bắt gặp rất nhiều tình huống bất ngờ do hành vi ứng xử thể hiện bản lĩnh của người quân tử cho dù sau đó là họ có bị mất mạng, thậm chí vạ đến cả gia tộc họ nhưng họ vẫn làm vì đó là nghĩa khí, là chánh khí khiến họ phải hành động như vậy.
Quan Công, hình tượng đẹp nhất của người quân tử trong Tam quốc diễn nghĩa. Điều đó giải thích lý do tại sao người Trung Hoa thờ Quan Công rất phổ biến. Quan Vân Trường từ khi còn trẻ, kết thân với Lưu Bị và Trương Phi tại vườn đào và ba người anh hùng đó gắn bó với nhau như anh em ruột thịt, thề sống chết có nhau. Họ tôn thờ Lưu Bị như người anh cả mà mọi hành động đều hướng về người anh cả đó. Tào Tháo nhiều lần đã dùng mọi thủ đoạn để lôi kéo Quan Vân Trường nhưng đều thất bại. Từ việc mua chuộc bằng vàng bạc, bổng lộc, khéo bài mưu để Quan Công mang ơn ông ta mà ở lại nhưng cũng vẫn thất bại. Quan Vân Trường một lòng hướng về Lưu Bị và không quản gian khổ đã hộ tống Lưu phu nhân về với Lưu Bị an toàn, qua các ải đều chém tướng giặc. Khí chất người anh hùng đó được giữ trọn vẹn cho tới lúc bị giết (khiến cho Thượng Đế cảm động mà hiển thánh?). Có thể nói hình ảnh Quan Công nhà nhân vật tiêu biểu nhất của người quân tử mà người Trung Hoa khao khát đạt tới được tác giả La Quán Trung xây dựng.
Tóm lại, những đức tính trên là những phẩm chất đạo đức cần có ở một con người quân tử, đáng được người khác noi theo, đáng được cộng đồng trân trọng.
2. Diện mạo-thể chất- Tướng mạo luôn được giữ cho khiêm cung (cẩn trọng, cung kính với người trên; thân ái, hòa đồng với người dưới). Nho gia có câu: “Người quân tử rất sợ phải sống một mình”. Vì sao lại như vậy? Con người sống một mình rất dễ làm bậy, vì nghĩ rằng không ai biết đến hành động xấu xa của mình (quân tử độc cư kỳ thiện lại càng khó giữ những đức tốt hơn). Người quân tử sống một mình với cái nhãn quân tử đã được dán cho phải luôn luôn giữ gìn nghiêm cẩn. Cho nên người quân tử càng sống một mình (độc cư) thì phải càng chăm chăm giữ gìn đức hạnh, nếu không, anh ta không còn là người quân tử nữa.
Đã là người quân tử thì người ấy ắt phải có hai đức tín: quý và tàm. Quý là biết xấu hổ với chính bản thân mình. Khi anh ta có những suy nghĩ, lời nói và hành vi xấu, mặc dù chỉ có bản thân anh ta biết mà anh ta biết ngượng với chính mình thì đó là quý. Con người đó có ý thức, trách nhiệm rất cao, không phải đợi cho đến khi những người khác phát hiện ra những đức tính xấu của anh ta. Tàm là biết xấu hổ, biết thẹn với người khác nếu mình có những lời nói, hành vi xấu. Đức tính này giúp người quân tử có những điều chỉnh kịp thời khi có ý nghĩ, lời nói và hành động xấu ảnh hưởng tới người khác. Một người mà không biết xấu hổ với người khác (vô tàm) thì không chuyện gì mà không dám làm và do đó sẽ mất đi phẩm chất của người quân tử.
Ngoài ra người quân tử còn có những diện mạo-thể chất khác như: [1]
- Con mắt tinh anh để nhìn rõ vạn vật.
- Thính giác tinh tường để nghe rõ vạn vật.
- Sắc mặt luôn ôn hòa.
- Lời nói luôn giữ bề trung thực.
- Có điều nghi hoặc phải luôn hỏi han để làm cho rõ.
- Kiềm chế: khi nóng giận phải nghĩ đến hoạn nạn có thể xảy ra, không giận quá mất khôn.
- Thấy lợi phải luôn nghĩ đến nghĩa, không vì lợi mà quên nghĩa, có quyền lợi chính đáng phải biết nghĩ đến người khác (lộc bất tận hưởng). Chính Khổng tử đã nói sự khác biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân là ở lợi. Người quân tử lấy nghĩa làm đầu, kẻ tiểu nhân thấy lợi làm đầu (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi [Lý Nhân 16]) [2]
3. Hành độngTheo quan niệm của Nho giáo, đã là người quân tử phải tỏ đức sáng ngày càng rộng, càng cao. Muốn làm được điều đó, người quân tử phải luôn phấn đấu theo các bậc thang dưới đây:
Cách vật: luôn tiếp xúc, nghiên cứu kỹ sự vật, sự việc để nhận rõ thực chất, phải trái vì nếu không nhận thức được bản chất của sự vật thì không xứng đáng là bậc quân tử.
Trí tri: luôn ngẫm nghĩ để thấu hiểu điều mình đã nhận thức được.
Thành ý: luôn chân thật, không dối người và cũng không dối mình.
Chính tâm: luôn suy nghĩ, hành động ngay thẳng, chính trực và làm chủ bản thân mình. Chính tâm còn có nghĩa là không suy nghĩ xằng bậy (tư vô tà).
Cũng theo Nho giáo thì tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ là một mục tiêu lớn của bậc quân tử.
- Tu thân: luôn nghiêm khắc với bản thân mình, sửa chữa những thiếu sót, không bảo thủ để nhận rõ sai sót nhằm hoàn thiện bản thân. Có như vậy, anh ta mới có thể tề gia được.
- Tề gia: làm cho gia đình mình tốt đẹp, tề chỉnh, có nề nếp, gia phong.
- Trị quốc: lo toan việc nước, cai trị đất nước cho có kỷ cương, phép nước.
- Bình thiên hạ: khiến cho thiên hạ thái bình, lòng người quy thuận.
Là người quân tử thì không sợ người khác không biết đến mình mà chỉ sợ đức của mình có tỏa sáng tới người khác không.
Hình ảnh hai đoàn quân đối địch nhau, các tướng xông ra đánh nhau còn quân sĩ thì hò reo cổ vũ là hình ảnh rất phổ biến trong Tam quốc diễn nghĩa.
Có một câu chuyện nữa rất buồn cười về cái tính quân tử của người Trung Hoa được chép trong Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi xin chép lại như sau:
“Có lần Tống Tương Công giao chiến với quân Sở Thành vương ở sông Hoằng. Công tử Mục Di bảo Tống Tương công:
- Quân họ nhiều, quân ta ít, nên đánh ngay khi họ chưa qua sông.
Tương công không nghe. Quân Sở qua sông rồi nhưng chưa bày trận, Mục Di lại bảo:
- Nên đánh đi.
Tương công bảo:
- Đợi cho họ bày trận xong đã.
Quân Sở bày trận xong, quân Tống tấn công, và bị đại bại. Tương công bị thương ở đùi. Người trong nước oán ông, ông nói:
- Đấng quân tử ai lại làm khó người khác trong lúc người ta quẫn bách!” [Nguyễn Hiến Lê 1997: 68].
Câu trả lời của Tống Tương rất buồn cười, chất phác đến ngây thơ. Tuy rằng ông đại bại nhưng ông không hổ thẹn với chính mình vì ông cho rằng hành động đó của ông là “quân tử”. Người quân tử làm gì việc bất chấp kết quả ra sao, miễn là không thẹn với lòng mình là được.
Quân tử đôi khi đồng nghĩa với anh hùng. Đã là anh hùng thì người đó nhất định là người quân tử, nhưng người quân tử không nhất thiết phải là bậc anh hùng. Người anh hùng có những hành động siêu việt vượt lên trên đồng loại, chứa đựng những phẩm chất tốt đẹp nhất.
Thời Minh Mạt, có 6 vị Nho sĩ của đảng Đông Lâm mà người đời xem là “lục quân tử”, họ đã vì nghĩa mà hy sinh bản thân mình. Họ bị Ngụy Trung Hiền, tên thái giám khét tiếng triều Minh làm hại. Đó là một vụ thất bại thảm hại của những người quân tử thế nhưng họ đã để lại tiếng thơm muôn đời về những lời nói và hành động của họ.[3]
Thời Mãn Thanh cũng có vụ “Lục quân tử” lấy máu mình nuôi ý chí cách mạng, quyết tâm lật đổ triều Thanh thối nát, cải cách đất nước. Lục quân tử đó là Đàm Tự Đồng, Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi), Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú.
Họ chẳng những là bậc quân tử mà còn là những anh hùng của dân tộc Trung Hoa những hành động của họ được nhắc tới hoài.[/justify]
[1] Theo
http://vi.wikipedia.org/wiki/ [2] Nguyễn Hiến Lê dịch là “Người quân tử hiểu rõ về nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu rõ về lợi”.
[3] Xem thêm Nguyễn Hiến Lê 1997: Sử Trung Quốc, cuốn 2.